Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Saturday, February 6, 2021

NGUYỄN VĂN TRÌNH, MIỆT MÀI CHẢY MÃI THÁNG NĂM TRÔI - TS Ngữ văn Bùi Như Hải



Nhà thơ Nguyễn Văn Trình hiện là Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị. Nguyễn Văn Trình sinh ngày 04 tháng 01 năm 1960, tại Lạng Phước, Đông Lễ, Đông Hà, Quảng Trị. Từ năm 1980 đến 1983, Nguyễn Văn Trình gia nhập Quân đội Nhân dân Việt Nam và tham gia chiến đấu ở biên giới phía Bắc. Từ năm 1983 đến 1987, Nguyễn Văn Trình học Đại học Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Huế. Sau bốn năm miệt mài học tập, rèn luyện anh đã được tốt nghiệp, rồi về nhận công tác giảng dạy tại trường THPT Bồ Bản, Triệu phong, Quảng Trị. Sau đó do yêu cầu của ngành, anh đã lần lượt được thuyên chuyển công tác, giảng dạy đến các trường THPT Đông Hà, THPT Lê lợi, THPT Phan Châu Trinh và THPT Chế Lan viên, đến năm 2017 thì nghỉ hưu theo chế độ.
 
Duyên thơ đến với Nguyễn Văn Trình khá sớm, ngay còn là thời học sinh cấp III. Những bài thơ anh viết trong thời học sinh được lưu giữ ở cuốn sổ Lưu bút, nó rất hồn nhiên, tươi vui. Trong thời gian tham gia chiến đấu ở biên giới phía Bắc, Nguyễn Văn Trình vẫn tiếp tục sáng tác thơ, rồi gửi cho các báo, tạp chí và được đăng, nên rất vui mừng và sung sướng. Chiều biên cương, Em về bên ấy, Em về cho ai chơi vơi, Chiều An lạc,… là những bài thơ được đăng đầu tay, được các đồng chí, đồng đội đón đọc, khen ngợi và khuyến khích, động viên anh tiếp tục viết thơ để được phổ biến rộng rãi, lan tỏa hơn nữa.
 
Những năm tháng sinh viên, Nguyễn Văn Trình càng có cơ hội hơn để sáng tác thơ, các bài thơ viết ra đa số được in trong các tuyển tập thơ văn Gương mặt thời gian của Đại học Sư phạm Huế và một số báo, tạp chí của Trung ương, địa phương. Sau bao nhiêu năm ấp ủ, tâm huyết, cùng với sự nỗ lực sáng tạo không ngừng nghỉ, Nguyễn Văn Trình đã ra mắt bạn đọc tập thơ đầu tay, có tên là Mây trắng bên trời, do Nhà xuất bản Thuận Hóa ấn hành năm 2011. Tập thơ vừa mới trình làng, đã được bạn đọc, đồng nghiệp đón nhận, các nhà phê bình văn học quan tâm, đánh giá khá cao, góp phần nâng thêm đôi cánh để Nguyễn Văn Trình tự tin bước vào làng thơ Việt Nam đương đại.
 
Nguyễn Minh Hoàng trong bài viết Khung trời mây trắng đã có nhận định, đánh giá rất đúng về tác giả, về tập thơ, khi cho rằng: “Tập thơ Mây trắng bên trời gói trọn những cảm xúc của thi sĩ về đời, người, nghề và những niềm sâu ký ức. Đọc những vần thơ của anh ẩn chứa những năm tháng cuộc đời, tôi bắt gặp cái sâu sắc trong cách nhìn, cái tinh tế trong cách cảm, cái đa dạng trong cách thể hiện những tâm tư. Không cầu kì, không làm duyên, từng câu từng chữ bình dị mà sang trọng, gần gũi như chính cuộc đời mà chứa đựng những triết lý sâu xa. Bởi Nguyễn Văn Trình đến với thơ bằng tấm lòng của nhà giáo, bằng tâm hồn đa cảm của một thi nhân, mang trách nhiệm thiên lương của một người dâng hiến. Dâng hiến cho đời cái đẹp của tiêu chí nghệ thuật thơ ca: Chân - Thiện - Mỹ. Thơ Nguyễn Văn Trình là sự dấn thân của một người luôn nặng nợ đa mang, với thơ với đời”.
 
Lê Đàn trong bài viết Những vầng mây không trôi cũng đã có một nhận định khá sắc nét, lẩy được cái hồn cốt của thơ Nguyễn Văn Trình qua tập thơ: “Tập thơ Mây trắng bên trời của thầy giáo - thi sĩ Nguyễn Văn Trình là những vầng mây không trôi. Bởi những bài thơ ấy luôn day dứt và ám ảnh, để lại trong tôi ấn tượng khó phai sau mỗi lần đọc. Và tôi tin những nõn mây trắng làm dịu mát lòng người kia sẽ còn mãi cùng trời xanh mây trắng”. 
 
Và không phụ lòng sự mong đợi của bạn đọc, anh tiếp tục ra mắt đọc giả thi phẩm thứ hai, có tựa đề Nắng chiêm bao, do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành năm 2019. Tập thơ đã được tặng giải C, giải thưởng Văn học nghệ thuật tỉnh Quảng Trị năm 2019, do chủ tịch UBND tỉnh ký tặng.
 
Đề tài trong thơ Nguyễn Văn Trình rất đa dạng và phong phú, trong đó đề tài quê hương, đất nước được quan tâm, thể hiện nhiều nhất. Nhìn xuyên suốt trong dòng chảy văn học Việt Nam, tình yêu quê hương, đất nước luôn là một trong những đề tài không bao giờ vơi cạn, nó mang đến nhiều cảm hứng sáng tác hơn cả. Nhưng cách biểu đạt và diễn đạt của mỗi văn nghệ sĩ lại khác nhau. Các bài thơ về quê hương, đất nước được Nguyễn Văn Trình viết khá hay, đầy hấp dẫn, đầy ngọt ngào, êm đềm như tình mẹ, nghĩa cha, nên bạn đọc cũng sẽ cảm thấy giống như một bức tranh phác họa về mảnh đất “chôn nhau cắt rốn” của mình, gợi nhớ về nơi ta đã một thời sinh ra và lớn lên. Đông Hà, Quảng Trị luôn gắn liền với cuộc đời của Nguyễn Văn Trình, vì thế nó có sức chứa lớn và nặng, trở thành nguồn cảm hứng dạt dào, không bao giờ vơi cạn. Hình ảnh Đông Hà hiện lên trong thơ Nguyễn Văn Trình dưới nhiều góc độ, nhiều tâm trạng nhưng lúc nào cũng đầy ắp tình người và tình đời. Nguyễn Văn Trình đã vẽ thành phố quê hương Đông Hà với một tâm trạng mến yêu, tươi vui và tự hào. Bạn đọc những bài thơ như Hiếu Giang xanh, Phố thương, Đông Hà ngày mới, Thành phố ngã ba sông, Huyền sử một dòng sông, Chiều An Lạc,… mới thấy được một tình yêu đằm sâu, nồng nàn, tinh tế của nhà thơ về quê hương mình. Đông Hà ngày mới là bài thơ hay, được bạn đọc yêu thích. Bởi qua bài thơ, bạn đọc không chỉ cảm nhận được tấm lòng chân thành, đôn hậu, như chính khúc ruột, như chính dòng máu chảy trong trái tim đối với Đông Hà - quê hương của nhà thơ, mà còn thấy được một thời tâm hồn của mình trong đẹp nhất:
 
Tôi yêu Đông Hà, tự thuở nào thơ dại
Thành phố muôn đời, ngự trị trong tim
Từ buổi cấp hai, cấp ba thời còn đi học
Kỷ niệm nào, lưu dấu tuổi học đường
 
Hiếu Giang xanh yêu thương biết mấy
Tắm mát tuổi học trò sông Cái sông Con
Tuổi thơ qua đi dòng sông ở lại
Miệt mài chảy mãi tháng năm trôi
                     (Đông Hà ngày mới)
 
Bài thơ Phố thương cũng đã để lại trong lòng bạn đọc những ấn tượng khó quên. Vẫn theo cái quy luật tuần hoàn của đất trời vần vũ, mà sao cứ vấn vương, bởi những gam màu khác lạ trong bốn mùa của một một thành phố trẻ Đông Hà. Bức tranh bốn mùa trong thơ ca truyền thống thường thì mùa Thu là mùa của lá vàng bay, mùa Hạ là mùa của những tiếng ve ngân vang, mùa Đông là mùa của những hàng cây trơ cành, trụi lá và mùa Xuân là mùa vạn vật thay áo mới, cây cối đâm chồi, nảy lộc, chen chau đua nở,… Nhưng bốn mùa trong thi phẩm này lại mang dáng nét riêng của một mảnh đất miền Trung. Sắc màu mùa Thu của Đông Hà không bâng khuâng, đượm buồn, nhưng lại kiêu sa, biêng biếc, thao thiết trong những buổi chiều mưa biêng biếc, lạc bước câu thề:
 
Một mùa thu nữa kiêu sa
Đông Hà tím chiều mưa buồn biêng biếc
Giọt sáng cuối ngày thao thiết
Chợt nhớ chợt thương lạc bước câu thề
 
Vạn vật vần vũ, Thu qua Đông đến. Đông Hà vào Đông mưa bụi bay bay, dòng sông Hiếu trong xanh, chất chứa bao kỷ niệm nồng say, đã làm xua tan cái lạnh của mưa phùn, gió bấc, đìu hiu và quạnh buồn đến xốn xang, nào lòng:
 
Đông Hà vào buổi cuối đông
Có dòng sông Hiếu, xanh trong tháng ngày
Có trời mưa bụi bay bay
Từ trong kỷ niệm nồng say bao điều
 
Và một mùa Xuân đủ muôn màu sắc thắm, rộn rã, rực rỡ và tràn đầy sức sống tươi trẻ, tinh khôi của một thành phố Đông Hà trăm nhớ, ngàn thương. Không gian mùa Xuân bừng lên trong sắc màu cờ hoa, rộn ràng của người mua, kẻ bán,… Cảnh mùa Xuân đầy quyến rũ, đắm say, với bao cảm xúc thiết tha, đằm thắm. Hình ảnh “đưa người viễn phố du xuân” đã vút lên một niềm tin ngời sáng, một tình yêu gắn kết keo sơn giữa con người và thiên nhiên:
 
Đông Hà vào xuân rực rỡ
Cánh mai vàng duyên nợ thi nhân
Hạt sương đọng trắng lá cành
Hoa sen trắng tỏa hương thơm ngào ngạt
 
Đất nước thống nhất, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân cùng nhau chung tay dựng xây Đông Hà ngày càng to đẹp và đàng hoàng hơn, phố xá được mở rộng, nhà cao tầng san sát, mọc lên nhanh chóng, những khu công nghiệp, nhà máy, công ty, xí nghiệp liên doanh trong nước và nước ngoài đã đầu tư, đem lại nguồn lao động, cung cấp việc làm cho rất nhiều người dân. Nhờ vậy, đời sống nhân dân ngày càng được ấm no, khởi sắc, giàu có hơn:
 
Đông Hà - thành phố ngã ba sông
Em biết không?
Thành phố mình đáng yêu là vậy
Chỉ bảy năm thôi mà biết bao thay đổi:
Đại lộ Hùng Vương vươn dài từng con phố
Những tòa nhà nối nhau san sát
Tầng thấp tầng cao tạo dáng phố phường
Có ngôi chùa cổ kính thân thương
Tiếng chuông ngân mỗi sớm mỗi chiều
Đông Hà phố gợi niềm yêu quê da diết
Phương trời nào cũng nhớ một ngã ba sông
                              (Thành phố ngã ba sông)

Hình ảnh Đông Hà gắn liền với con sông Hiếu huyền thoại, rất đỗi tự hào. Huyền sử dòng sông Hiếu mãi ngân vang những chiến công đánh đuổi giặc thù, tiếp nối mạch nguồn của khí linh nguồn cội anh hùng, đảm đang, bất khuất để cùng “chung lưng đấu cật” dựng xây, làm nên vóc dáng sinh động của một thành phố trẻ Đông Hà sầm uất trên trục đường giao thông huyết mạch Bắc - Nam và trên tuyến đường xuyên Á, hành lang kinh tế Đông - Tây:
 
Cuộc chiến qua đi
Sông lại hát tình ca
Ôi dòng sông, chở nặng phù sa
Mà làm nên những cánh đồng, bờ bãi
Tắm mát bao cuộc đời, dầu dãi nắng mưa
Hiếu Giang xanh, xanh tựa màu trời
Cửa Việt trung trinh, nghĩa tình vời vợi
Hồn thiêng đất nước, âm ba muôn đời
                  (Huyền sử một dòng sông)
  
Tôi thiết nghĩ, có rất nhiều nhà thơ, nhà văn viết về thành phố Đông Hà, nhưng hẳn nhiên vẫn chưa đủ, chưa xứng tầm vóc lịch sử của một thành phố trẻ, nên do đó cần phải có thêm nhiều cây bút thể hiện tình yêu của mình qua những tác phẩm truyện ngắn, tiểu thuyết, tùy bút và phóng sự… nữa, mới làm đầy lên hình ảnh của Đông Hà ở đôi bờ sông Hiếu đang vươn mình lớn dậy từng ngày trong thời kỳ đổi mới một cách đa dạng và phong phú hơn.
 
Quê hương thiêng liêng - nơi lưu giữ những mảnh ký ức sáng trong, tươi đẹp. Nơi đong đầy những tấm lòng, tình yêu thương chân thật, vì thế trong thơ Nguyễn Văn Trình hiện diện rất nhiều địa danh trên quê hương mình như Cửa Tùng, Khe Sanh, Lao Bảo, Hải Lăng, Gio Linh, Cồn Tiên, Dốc Miếu…
Cửa Tùng - vùng đất của một thời chiến tranh, đạn bom, máu lửa, nhưng giờ đây nó đã bừng sáng, mang dáng dấp của một thành phố biển trong tương lai. Những ngôi nhà kiên cố, cao tầng mọc lên san sát, những nhà hàng, quán xá khang trang, lộng lẫy, những cồn cát, bãi biển xanh ngắt,… làm say đắm bao hồn người, lữ khách. Vua Duy Tân đã coi đây là một vịnh nhỏ, có màu ngọc lục bảo tuyệt đẹp:     
 
Khi anh về với biển Cửa Tùng     
Biển mặn khiến lòng anh xao xuyến       
Gió hát xôn xao lồng lộng bến bờ     
Bãi Nữ Hoàng thiết tha bao nỗi nhớ       
Biết nói gì trước biển chiều nay     
Trước xanh xa thanh khiết bao ngày     
Trước vẻ đẹp nồng say của biển       
Trước giản dị hồn nhiên cuộc sống con người
                                  (Về với biển Cửa Tùng)
 
Đúng như dự cảm của nhà thơ Ngô Kha: “Rồi sẽ thấy và nhất định thấy. Một đô thị vàng trên đồi Lao Bảo. Một thị trấn yêu kiều qua ngã Làng Vây”. Tình yêu quê hương chính là sức mạnh vô bờ để dựng nên một Khe Sanh, Hướng Hóa giàu đẹp, văn minh, rất đáng được tự hào. Viết về mảnh đất dấu yêu ở phía Tây của quê hương mình, Nguyễn Văn Trình đã có những bài thơ khá hay như Khe Sanh ngày mới, Khe Sanh đêm hội quán,... Đến với những bài thơ này, đọc giả sẽ tưởng chừng như mình đã từng sống và gắn bó với mảnh đất dấu yêu, vì thế nên cũng đủ để yêu thương, đủ để đất hóa tâm hồn của mình với hai tiếng gọi quê hương thao thiết:
 
Anh đến Khe Sanh một buổi chiều        
Nghe rừng vẫy gọi thác đăm chiêu       
Đường lên uốn lượn theo chiều gió              
Dốc xuống quanh quanh, ấm câu hò            
 
Khe Sanh mới đó, lung linh quá           
Nắng vàng gió mát dạ chơi vơi             
Núi cao từng dải trời xanh thẳm           
Thị trấn nằm sương núi mây vờn
                 (Khe Sanh ngày mới)
 
Tình yêu quê hương của người thơ cũng chính là nguồn nước mát lành, chảy mãi đổ ra đại dương để hội tụ thành tình yêu đất nước.
 
Là một nhà giáo, nên luôn bị câu thúc bởi thời gian công việc giảng dạy và gia đình nhưng Nguyễn Văn Trình vẫn luôn tranh thủ thời gian của những ngày tháng hè để rong ruổi đến những vùng quê xa xôi của đất nước. Trong một lần đến Đại Lải, Nguyễn Văn Trình tràn đầy cảm hứng trước cảnh đẹp sơn thủy hữu tình, đầy thơ mộng đã viết ngay một chùm thơ về mảnh đất này, như: Chiều Đại Lải, Với Đại Lải, Đại Lải vào xuân,... chính là một cung bậc của xúc cảm, của tâm trạng chứa đầy niềm hoan ca, tràn đầy vui sướng trước cảnh và người nơi đây, trước những đổi thay tươi sáng. Bài thơ Với Đại Lải như chính tâm hồn rạng ngời, vui tươi của người thơ, nên diễn ngôn trong lập tứ và ý thơ rất tự nhiên, trong trẻo. Cảnh vật và con người như người bạn tri âm đã mời gọi nhà thơ từ lâu. Giữa không gian thơ mộng đầy màu sắc, âm thanh của nắng gió, cỏ hoa, hồ nước trong xanh và sắc lụa Hà Đông rạng ngời em gái chan chứa nghĩa tình, làm say đắm tâm hồn người thơ:    
 
Nắng nghiêng chiều soi gương hồ Đại Lải    
Gió mơn man hôn mãi mộng đồi thông      
Em rạng ngời trong sắc lụa Hà Đông    
Ôi Đại Lải ru lòng tôi đến vậy!?    
Lời tự tình hây hây đôi má đỏ    
 
Đại Lải chiều nắng gió hanh hao   
Nắng rất mỏng xuyên qua từng kẽ lá    
Rừng thông già dạt dào bao giấc mộng    
Xanh tháng năm lặng sóng mặt hồ    
Êm ả thế như tình em đằm thắm
                             (Với Đại Lải)
 
Nhà thơ Nguyễn Văn Trình ước mơ ít nhất một lần trong đời được đến thủ đô Hà Nội và khát khao ấy cũng đã trở thành hiện thực. Thể hiện tình yêu với Hà Nội – trái tim hồng của cả nước, trong một chuyến đi tham quan các tỉnh phía Bắc, anh ghé đến Hà Nội và đã sáng tác bài thơ Trong tôi Hà Nội. Đến với bài thơ này, bạn đọc như được hòa vào không gian đầy thơ mộng, dịu dàng của mùa Thu Hà Nội. Một mùa Thu yên ả, nắng thu vàng buông chiều, những con phố nhỏ nồng nàn mùi hương hoa sữa, những hồ nước thoang thoảng thơm ngát mùi hoa sen, những hàng liễu rũ, bất chợt những cơn mưa rào ngúng nguẩy,... đã đọng lại bao niềm nhung nhớ, luyến thương:  
 
Hà Nội trong tôi, nắng vàng dịu ngọt  
Mây lững lờ trôi nhè nhẹ giữa trời thu         
Lộc vừng rơi đầy lối      
Hoa sữa thơm nồng nàn        
Màu lá bàng đỏ thắm    
Đọng bao niềm nhớ nhung
             (Trong tôi Hà Nội)
 
Và đến với xứ Lạng, nhà thơ không chỉ ngỡ ngàng, rạo rực trước vẻ đẹp của núi đồi quanh co, trùng điệp, nắng chiều khói sương, mà còn say men tình, hân hoan, hạnh phúc ngọt ngào khi gặp lại người thương, để rồi vấn vương, ra về chân bước không rời, bời bời nhớ nhung, luyến lưu:       
 
Tôi lên xứ Lạng tìm em      
Tìm trong câu hát, mênh mang nắng chiều      
Đường đèo nên dạ liêu xiêu   
Chập chùng non thẳm, mắt nhiều khói sương   
 
Ra về lòng lại vấn vương   
Ngàn thu chân bước, thương thương không rời      
Ra về lại nhớ bời bời   
Trăm năm vẫn đợi, một người trăm năm.
                                   (Tìm về xứ Lạng)

Dẫu biết rằng, tình yêu quê hương, đất nước có diễn ngôn đến tận cùng của nỗi lòng, thì vẫn không thể diễn tả hết được. Nhưng qua những bài thơ về quê hương, đất nước của Nguyễn Văn Trình và một số nhà thơ khác, bạn đọc sẽ cùng đồng cảm với người thơ về tình yêu của mình dành cho quê hương, đất nước. 
 
Là một người lính viết về người lính, nên hình tượng người lính trong thơ Nguyễn Văn Trình hiện lên rất đỗi chân thực, như nó vốn có, như nó vốn tồn tại. Người lính nơi biển đảo Hoàng Sa và Trường Sa ít phải chịu cảnh vượt suối, trèo đèo vì “ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”, phải “mưa dầm cơm vắt”,… như người lính trong đất liền. Nhưng người lính biển đảo vẫn có những gian khó, hiểm nguy và những thử thách nhất định. Ở nơi đầu sóng ngọn gió, một thời chiến tranh, người lính hải đảo cùng chung ý chí, kiên cường, anh dũng bám đảo, bám biển để gìn giữ bờ cõi, ngư dân yên tâm tiến ra biển cả đánh bắt hải sản:
 
Mấy trăm năm, kiên cường gìn giữ
Tiếng gươm khua, còn vọng đến bây giờ
Như lời thề giữ yên bờ cõi
Nơi đảo xa đêm ngày vẫy gọi
Thiêng liêng hai tiếng: Tổ quốc mình.
 
Biển đảo quê hương hình hài đất nước
Gần gũi yêu thương, ngõ xóm đường làng
Ta quyết giữ, hàng trăm hải lý
Thuộc chủ quyền biển đảo Việt Nam
Để ngư trường, mãi mãi của ta
Hoàng - Trường Sa biển đảo là nhà
Đã bao đời, ông cha gìn giữ.
                (Với biển đảo quê hương)
 
Dẫu biết rằng, những gian khổ, thiếu thốn của người lính biển đảo không còn như thời chiến tranh. Đất nước hòa bình, kinh tế ngày càng phát triển, đời sống vật chất cũng như tinh thần ngày càng được cải thiện, nâng cao hơn rất nhiều. Tuy nhiên, người lính biển đảo vẫn có những thiệt thòi, mất mát nhất định khi phải sống xa gia đình, vợ con, bạn bè, làng xóm và cả cuộc sống văn minh nơi đất liền,... Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, khi mà biển Đông đang “dậy sóng” từng ngày, từng giờ, biến cố có thể xảy ra bất cứ lúc nào, người lính biển đảo luôn phải đối mặt với kẻ thù, với sự hy sinh mất mát, thì ý chí, tư tưởng của người lính biển đảo càng phải mạnh mẽ hơn, quyết một lòng trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân. Và sự thật đã diễn ra trong những ngày hè nóng bỏng của tháng 05 năm 2014 khi Trung Quốc đã ngang nhiên hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trái phép, xâm phạm vùng biển chủ quyền của nước ta. Hơn chín mươi triệu người con dân Đất Việt trong cả nước dậy sóng căm hờn, thể hiện lòng yêu nước, thương nòi, thì người lính biển đảo chẳng hề nao lòng, quyết tâm chặn đứng mộng xâm lăng không để một tấc biển, tầng trời rơi vào lũ tay giặc chiếm biển đảo:
 
Bỗng một chiều, tháng năm thịnh nộ
Bọn người kia, hùng hổ xâm lăng
Chúng tham tàn, cướp biển đặt giàn khoan
Trấn áp ngư dân, tranh giành biển đảo
Biển đảo quê hương, dậy sóng căm hờn
Dẫu một tấc biển, tầng trời
Đều là lãnh thổ ông cha để lại
Ta quyết giữ, cho đời đời con cháu
Để mai này, còn biển ra khơi,…   
 
Tháng năm này, biển Đông dậy sóng
Huế - Sài gòn - Hà nội,… xuống đường        
Yêu nước thương nòi, ngàn năm sống mãi     
Căm cướp nước, thơ thành mũi chông ngọn giáo     
Diệt tham tàn, chặn đứng mộng xâm lăng     
Lòng yêu nước, chảy trong từng huyết quản     
Con cháu rồng tiên,     
Không khuất phục bao giờ    
Ta nhân nghĩa, chúng thì tàn bạo    
Chẳng nao lòng, quyết tâm giữ đảo.
               (Với biển đảo quê hương)
 
Trong không khí “nước sôi lửa bỏng” như thế này, lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy” lại một lần nữa đã trỗi dậy một cách mạnh mẽ trong trái tim của giới văn nghệ sĩ nước ta. Cùng góp chung trên mặt trận văn hóa nghệ thuật, Nguyễn Văn Trình đã sáng tác bài thơ Với biển đảo quê hương. Bài thơ ra đời trong bối cảnh như vậy, đã tạo được một sự đồng cảm, làm lay động hàng triệu trái tim bạn đọc. Bài thơ có một sự tác động to lớn đến công tác tuyên truyền và vận động toàn dân hướng về biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu.
 
Không những là người lính biển đảo, người lính biên phòng cũng đã trở thành một hình tượng đẹp trong thơ Nguyễn Văn Trình. Người lính biên phòng trên các tuyến biên giới nước ta nói chung và Cửa Việt, Quảng Trị nói riêng đã thầm lặng hy sinh tuổi thanh xuân của mình, mà gánh vác trọng trách lớn lao của Đảng và nhân dân giao phó, đó là bảo vệ chủ quyền và an ninh biên giới của Tổ quốc. Người lính biên phòng vì vậy đã được các nhà thơ tôn vinh, mến yêu dựng lên một hình ảnh đẹp qua những bài thơ trải dài theo năm tháng lịch sử. Trong số những bài thơ Nguyễn Văn Trình viết về người lính biên phòng, thì Người lính biên phòng Cửa Việt là một bài thơ khá hay. Bài thơ đã phác họa được hình ảnh chân thực của những người lính biên phòng ở một số miền quê khác nhau đến đồn biên phòng Cửa Việt làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Mỗi người lính có một hoàn cảnh, một tính cách khác nhau, nhưng lại có cùng chung một ý chí, một lí tưởng, cùng chung tay vượt qua mọi gian khổ, khó khăn, hy sinh tuổi xuân của mình để bảo vệ biên cương, đất nước. Có những lúc nỗi nhớ quê hương, nhớ gia đình và người yêu da diết, trĩu nặng, nhưng người lính biên phòng vẫn cố nén lại, tạm gác tình riêng vì nghĩa lớn. Người lính biên phòng ngày đêm bám trụ biên cương, kiên định tinh thần vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, sẵn sàng xả thân trước mọi hiểm nguy, giặc ngoại bang, tội phạm xuyên quốc gia,… để đất nước được thanh bình, ổn định và thịnh vượng:
 
Anh thao thức cùng ngư dân bám biển
Giữ vững chủ quyền, lãnh hải Việt Nam
Bước chân anh chưa hề mệt mỏi
Từ khơi xa, cho tới mỗi bờ gần
Lúc nào cũng có anh canh giữ
Với các anh đó là nhiệm vụ thiêng liêng
Cho hôm nay và cho cả ngày mai giữ biển
Những người lính Biên phòng Cửa Việt
Trăm quê riêng, về ở một đồn chung
Đoàn kết - yêu thương, trong một gia đình
Chung trách nhiệm: Canh bờ giữ biển
Da cháy nắng, bởi mặn mòi muối biển
Riêng nụ cười vẫn sáng mãi tin yêu
Anh vượt lên những khó khăn gian khổ
Có những khi nghiệt ngã của đời thường
Ngày như đêm, quyết hoàn thành trọng trách
Đồn là nhà, biển đảo là quê hương
                 (Người lính biên phòng Cửa Việt)
 
Là một thầy giáo, ở trong ngành giáo dục, nên Nguyễn Văn Trình cũng đã dành một góc rất riêng trong vườn thơ của mình những bông hoa tươi thắm nhất về nghề giáo, mái trường, đồng nghiệp, tình thầy trò,... Mảng thơ viết về đề tài này khá hay, được học sinh, đồng nghiệp yêu mến và được các nhạc sĩ phổ nhạc như Bài giảng giờ chia tay, Hoài niệm, Ngày tựu trường, Hãy nuôi dưỡng ước mơ,  Trường em, Bài ca trường Phan Châu Trinh, Trường em trường trung học Lê Lợi...
 
Nguyễn Văn Trình có quãng đời rất đẹp của tuổi học sinh. Một thời đi học và cắp sách đến trường cùng bạn bè, thầy cô, trường lớp,... Vì thế, nó đã trở thành một kỷ niệm đẹp, không thể nhạt nhòa theo năm tháng. Và rồi, “thế giới khung trời mây trắng” ấy đã đi suốt Nguyễn Văn Trình một chặng đường dài gần bốn mươi năm làm nghề giáo. Mái trường vì thế đã trở thành ngôi nhà thứ hai của anh. Nó đã gắn bó, lưu giữ biết bao kỷ niệm, tình cảm, thương yêu với học trò, với đồng nghiệp. Tình yêu đẹp ấy đã được hóa thân để viết lên những vần thơ ngọt ngào, thắm thiết, ngợi ca, hãnh diện khi nhà thơ được dạy học ở mái trường mang tên của nhà chí sĩ yêu nước Phan Châu Trinh:
 
Tự hào trường em, mang tên người chí sĩ
Chí sĩ Việt Nam vì nước quên mình
Phan Châu Trinh - Đông Hà trường em
Vì tương lai, vì ngày mai tươi sáng
Học hành chăm ngoan, quyết chí hăng say
Nắm chắc thành công bước vào ngày mới
Mái trường tầng cao, dạt dào yêu mến
Phan Châu Trinh - Đông Hà trường em
          (Bài ca trường Phan Châu Trinh)
 
Hãy nuôi dưỡng ước mơ là một bài thơ giàu tính nhân văn, thể hiện tâm huyết của người thơ đối với nghề giáo. Từng chữ, từng câu trong bài thơ chính là lời khuyên, sự răn dạy của anh đối với học trò của mình cũng như đối với thế hệ trẻ hôm nay phải biết dưỡng nuôi những ước mơ, dự định tương lai. Với sự tâm huyết, nỗ lực bước đi trên chính đôi chân của mình, thì sẽ vượt qua được mọi khó khăn, gian khổ và thành công, tương lai tươi sáng, tốt đẹp:
 
Cuộc sống, có muôn ngàn cái đích vươn tới
Hãy chọn cho mình, một lối đi riêng
Em sẽ thấy, cuộc sống  này đáng yêu biết mấy
Trời trên đầu vẫn xanh
Đất dưới chân, vẫn bình yên nồng ấm
                  (Hãy nuôi dưỡng ước mơ)
 
Gần bốn mươi năm dạy học, có bao thế hệ học trò, thì có bấy nhiêu tâm trạng, nỗi niềm. Mỗi thế hệ học trò, mỗi lớp học và mỗi học sinh đều được nhà thơ - thầy giáo Nguyễn Văn Trình nâng niu, dạy bảo, xem như người con, người em của mình, nên khi các em chuẩn bị ra trường, chia tay là những lần chất chứa đầy tâm trạng ngậm ngùi, rưng rức nước mắt:
 
Đó là bài giảng cuối cùng cho em
Mà sáng nay thầy giảng
Và bắt đầu một cuộc chia tay
Vội vàng cái buổi chia tay
Không phải lần đầu sao thầy rưng rức
Cả lớp nôn nao một thoáng ngậm ngùi
Rồi tiếng cười thay nước mắt     
                       (Bài giảng giờ chia tay)
 
Trong “dàn đại hợp xướng” thơ Nguyễn Văn Trình, có sự hiện diện những giai điệu ngọt ngào, du dương, đầy lãng mạn về tình yêu đôi lứa, đó cũng là chuyện thường tình. Vì rằng, trái tim của nhà thơ cũng đa cảm như bao người ở cõi nhân gian này. Tình yêu trong thơ anh thuộc về thì quá khứ - cái thì chất chứa bao hoài niệm của một thời xa vắng. Nhưng cái tình yêu ấy, kết thúc không được viên mãn, tròn đầy, vì thế hương vị tình yêu chất chứa nỗi buồn, nuối tiếc. Người thơ vương vấn nỗi buồn tình yêu của cái thuở ban đầu trắng trong, tinh khiết như pha lê:
 
Áo trắng - Em giờ xa xôi rứa?
Để ai về, ngồi đếm giọt mưa rơi
Hỏi còn không
Ai thắp ngọn lửa bên trời!
Mong sưởi ấm
Những chiều cô quạnh.
         (Áo trắng bên trời)
 
“Em giờ xa xôi rứa?” – chính là một câu hỏi không lời đáp, vọng từ trái tim của nhà thơ về một mối tình đẹp của một thời hoa mộng không vẹn nguyên, không đơm nở được hạnh phúc tròn đầy theo năm tháng. Em hôm nay không như hôm qua, em giờ xa xôi, em giờ có góc trời riêng, hạnh phúc với mái ấm nhỏ. Câu thơ bật ra nghe thảng thốt một nỗi niềm cô quạnh, buồn da thiết của tác giả. Cái thời yêu ấy đã đi vào dĩ vãng nhưng thi sĩ vẫn cứ ngỡ như vừa mới hôm qua, vừa mới bị mất thôi. Tình yêu để lại cho người thơ một kỷ niệm buồn - một nỗi buồn có phần nặng nợ, đa mang:
 
Ai ngu ngơ
Ảnh hình trong ký ức
Vu vơ buồn
Lạc lối chiều buông
Áo trắng phôi pha, áo thành dĩ vãng
Để suốt đời, nặng nợ đa mang
                            (Áo trắng bên trời)
 
Cái tình buồn ấy, không chỉ đọng lại ở thuở áo trắng, mà còn cả cái thời “bình minh” của cuộc đời. Em về cho ai chơi vơi, Nắng chiêm bao, Em về tinh khôi,... là những bài thơ đều mang dự cảm của sự chia lìa, vỡ tan. Thậm chí khi đã trưởng thành, có sự nghiệp, mong muốn được chung tay xây đắp tổ ấm gia đình nhỏ với người mình thương mến nhưng vẫn không thành, để lại trong anh một nỗi buồn chơi vơi, rã rời:
 
Em về bên ấy chiều nay
Một trời thương nhớ, heo may một trời
Câu ca mái nặng chơi vơi
Dòng sông như cũng rã rời, buồn tênh.
 
Em về bên ấy nắng hanh
Hay mưa nhòa nhạt, chân thành ngày xưa
Em về buốt tím hoa mua
Đường côi mấy nẻo, gió lùa hồn anh.
                                   (Em về bên ấy)
 
Thơ tình Nguyễn Văn Trình nhuốm đầy sắc màu của nỗi buồn da diết, nhưng đó lại là một nỗi buồn đẹp, một nỗi buồn không lụy, một nỗi buồn trong trẻo của một tình yêu luôn tận hiến cả trái tim mình cho người mình yêu. Vì thế mà, nhật ký tình yêu mang đầy nỗi ám ảnh của sự cô đơn, rạn vỡ, hoang mang nhưng người thơ vẫn không hối tiếc.
 
Trong phạm vi hạn chế của một bài viết không thể nói hết những cái hay, cái đẹp của thơ Nguyễn Văn Trình, nên tôi viết đôi điều cảm nhận này theo cách nghĩ, cách cảm của riêng mình, để nhằm góp phần phác họa một gương mặt thơ khá tiêu biểu ở một vùng đất Quảng Trị đầy nắng gió, mưa dầm. Đôi cánh thơ Nguyễn Văn Trình tự thân đã có sẵn hương thơm tỏa ngát trong vườn thơ như một sự vẫy gọi bạn đọc cùng đồng hành, cùng sáng tạo. Với tài năng và lực bút của mình, tôi cũng như bạn đọc hy vọng nhà thơ - nhà giáo Nguyễn Văn Trình trên hành trình Miệt mài chảy mãi tháng năm trôi sẽ làm nên một chứng chỉ thi ca trong lòng bạn đọc gần xa, trong và ngoài nước.
 
Portland, ngày 28 tháng 02 năm 2019
               TS Bùi Như Hải
Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 310/2020

No comments: