Nhà thơ Nguyễn Văn Trình hiện là Hội viên Hội Văn học
Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị. Nguyễn Văn Trình sinh ngày 04 tháng 01 năm 1960, tại
Lạng Phước, Đông Lễ, Đông Hà, Quảng Trị. Từ năm 1980 đến 1983, Nguyễn Văn Trình
gia nhập Quân đội Nhân dân Việt Nam và tham gia chiến đấu ở biên giới phía Bắc.
Từ năm 1983 đến 1987, Nguyễn Văn Trình học Đại học Ngữ văn, trường Đại học Sư
phạm Huế. Sau bốn năm miệt mài học tập, rèn luyện anh đã được tốt nghiệp, rồi về
nhận công tác giảng dạy tại trường THPT Bồ Bản, Triệu phong, Quảng Trị. Sau đó
do yêu cầu của ngành, anh đã lần lượt được thuyên chuyển công tác, giảng dạy đến
các trường THPT Đông Hà, THPT Lê lợi, THPT Phan Châu Trinh và THPT Chế Lan
viên, đến năm 2017 thì nghỉ hưu theo chế độ.
Duyên thơ đến với Nguyễn Văn Trình khá sớm, ngay còn
là thời học sinh cấp III. Những bài thơ anh viết trong thời học sinh được lưu
giữ ở cuốn sổ Lưu bút, nó rất hồn nhiên, tươi vui. Trong thời gian tham gia chiến
đấu ở biên giới phía Bắc, Nguyễn Văn Trình vẫn tiếp tục sáng tác thơ, rồi gửi cho
các báo, tạp chí và được đăng, nên rất vui mừng và sung sướng. Chiều biên cương, Em về bên ấy, Em về cho ai
chơi vơi, Chiều An lạc,… là những bài thơ được đăng đầu tay, được các đồng
chí, đồng đội đón đọc, khen ngợi và khuyến khích, động viên anh tiếp tục viết
thơ để được phổ biến rộng rãi, lan tỏa hơn nữa.
Những năm tháng sinh viên, Nguyễn Văn Trình càng có cơ
hội hơn để sáng tác thơ, các bài thơ viết ra đa số được in trong các tuyển tập
thơ văn Gương mặt thời gian của Đại học
Sư phạm Huế và một số báo, tạp chí của Trung ương, địa phương. Sau bao
nhiêu năm ấp ủ, tâm huyết, cùng với sự nỗ lực sáng tạo không ngừng nghỉ, Nguyễn
Văn Trình đã ra mắt bạn đọc tập thơ đầu tay, có tên là Mây trắng bên trời, do Nhà xuất bản Thuận Hóa ấn hành năm 2011. Tập
thơ vừa mới trình làng, đã được bạn đọc, đồng nghiệp đón nhận, các nhà phê bình
văn học quan tâm, đánh giá khá cao, góp phần nâng thêm đôi cánh để Nguyễn Văn
Trình tự tin bước vào làng thơ Việt Nam đương đại.
Nguyễn Minh Hoàng trong bài viết Khung trời mây trắng đã có nhận định, đánh giá rất đúng về tác giả,
về tập thơ, khi cho rằng: “Tập thơ Mây trắng
bên trời gói trọn những cảm xúc của thi sĩ về đời, người, nghề và những niềm
sâu ký ức. Đọc những vần thơ của anh ẩn chứa những năm tháng cuộc đời, tôi bắt
gặp cái sâu sắc trong cách nhìn, cái tinh tế trong cách cảm, cái đa dạng trong
cách thể hiện những tâm tư. Không cầu kì, không làm duyên, từng câu từng chữ
bình dị mà sang trọng, gần gũi như chính cuộc đời mà chứa đựng những triết lý
sâu xa. Bởi Nguyễn Văn Trình đến với thơ bằng tấm lòng của nhà giáo, bằng tâm hồn
đa cảm của một thi nhân, mang trách nhiệm thiên lương của một người dâng hiến.
Dâng hiến cho đời cái đẹp của tiêu chí nghệ thuật thơ ca: Chân - Thiện - Mỹ.
Thơ Nguyễn Văn Trình là sự dấn thân của một người luôn nặng nợ đa mang, với thơ
với đời”.
Lê Đàn trong bài viết Những vầng mây không trôi cũng đã có một nhận định khá sắc nét, lẩy
được cái hồn cốt của thơ Nguyễn Văn Trình qua tập thơ: “Tập thơ Mây trắng bên trời của thầy giáo - thi sĩ Nguyễn Văn Trình là
những vầng mây không trôi. Bởi những bài thơ ấy luôn day dứt và ám ảnh, để lại
trong tôi ấn tượng khó phai sau mỗi lần đọc. Và tôi tin những nõn mây trắng làm
dịu mát lòng người kia sẽ còn mãi cùng trời xanh mây trắng”.
Và không phụ lòng sự mong đợi của bạn đọc, anh tiếp tục
ra mắt đọc giả thi phẩm thứ hai, có tựa đề Nắng
chiêm bao, do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành năm 2019. Tập thơ đã được tặng
giải C, giải thưởng Văn học nghệ thuật tỉnh Quảng Trị năm 2019, do chủ tịch
UBND tỉnh ký tặng.
Đề tài trong thơ Nguyễn Văn Trình rất đa dạng và phong
phú, trong đó đề tài quê hương, đất nước được quan tâm, thể hiện nhiều nhất.
Nhìn xuyên suốt trong dòng chảy văn học Việt Nam, tình yêu quê hương, đất nước
luôn là một trong những đề tài không bao giờ vơi cạn, nó mang đến nhiều cảm hứng
sáng tác hơn cả. Nhưng cách biểu đạt và diễn đạt của mỗi văn nghệ sĩ lại khác
nhau. Các bài thơ về quê hương, đất nước được Nguyễn Văn Trình viết khá hay, đầy
hấp dẫn, đầy ngọt ngào, êm đềm như tình mẹ, nghĩa cha, nên bạn đọc cũng sẽ cảm
thấy giống như một bức tranh phác họa về mảnh đất “chôn nhau cắt rốn” của mình, gợi nhớ về nơi ta đã một thời sinh ra
và lớn lên. Đông Hà, Quảng Trị luôn gắn liền với cuộc đời của Nguyễn Văn Trình,
vì thế nó có sức chứa lớn và nặng, trở thành nguồn cảm hứng dạt dào, không bao
giờ vơi cạn. Hình ảnh Đông Hà hiện lên trong thơ Nguyễn Văn Trình dưới nhiều
góc độ, nhiều tâm trạng nhưng lúc nào cũng đầy ắp tình người và tình đời. Nguyễn
Văn Trình đã vẽ thành phố quê hương Đông Hà với một tâm trạng mến yêu, tươi vui
và tự hào. Bạn đọc những bài thơ như Hiếu
Giang xanh, Phố thương, Đông Hà ngày mới, Thành phố ngã ba sông, Huyền sử một
dòng sông, Chiều An Lạc,… mới thấy được một tình yêu đằm sâu, nồng nàn,
tinh tế của nhà thơ về quê hương mình. Đông Hà ngày mới là bài thơ hay, được bạn
đọc yêu thích. Bởi qua bài thơ, bạn đọc không chỉ cảm nhận được tấm lòng chân
thành, đôn hậu, như chính khúc ruột, như chính dòng máu chảy trong trái tim đối
với Đông Hà - quê hương của nhà thơ, mà còn thấy được một thời tâm hồn của mình
trong đẹp nhất:
Tôi
yêu Đông Hà, tự thuở nào thơ dại
Thành
phố muôn đời, ngự trị trong tim
Từ
buổi cấp hai, cấp ba thời còn đi học
Kỷ
niệm nào, lưu dấu tuổi học đường
Hiếu
Giang xanh yêu thương biết mấy
Tắm
mát tuổi học trò sông Cái sông Con
Tuổi
thơ qua đi dòng sông ở lại
Miệt
mài chảy mãi tháng năm trôi
(Đông Hà ngày mới)
Bài thơ Phố
thương cũng đã để lại trong lòng bạn đọc những ấn tượng khó quên. Vẫn theo
cái quy luật tuần hoàn của đất trời vần vũ, mà sao cứ vấn vương, bởi những gam
màu khác lạ trong bốn mùa của một một thành phố trẻ Đông Hà. Bức tranh bốn mùa
trong thơ ca truyền thống thường thì mùa Thu là mùa của lá vàng bay, mùa Hạ là
mùa của những tiếng ve ngân vang, mùa Đông là mùa của những hàng cây trơ cành,
trụi lá và mùa Xuân là mùa vạn vật thay áo mới, cây cối đâm chồi, nảy lộc, chen
chau đua nở,… Nhưng bốn mùa trong thi phẩm này lại mang dáng nét riêng của một
mảnh đất miền Trung. Sắc màu mùa Thu của Đông Hà không bâng khuâng, đượm buồn,
nhưng lại kiêu sa, biêng biếc, thao thiết trong những buổi chiều mưa biêng biếc,
lạc bước câu thề:
Một
mùa thu nữa kiêu sa
Đông
Hà tím chiều mưa buồn biêng biếc
Giọt
sáng cuối ngày thao thiết
Chợt
nhớ chợt thương lạc bước câu thề
Vạn vật vần vũ, Thu qua Đông đến. Đông Hà vào Đông mưa
bụi bay bay, dòng sông Hiếu trong xanh, chất chứa bao kỷ niệm nồng say, đã làm
xua tan cái lạnh của mưa phùn, gió bấc, đìu hiu và quạnh buồn đến xốn xang, nào
lòng:
Đông
Hà vào buổi cuối đông
Có
dòng sông Hiếu, xanh trong tháng ngày
Có
trời mưa bụi bay bay
Từ
trong kỷ niệm nồng say bao điều
Và một mùa Xuân đủ muôn màu sắc thắm, rộn rã, rực rỡ
và tràn đầy sức sống tươi trẻ, tinh khôi của một thành phố Đông Hà trăm nhớ,
ngàn thương. Không gian mùa Xuân bừng lên trong sắc màu cờ hoa, rộn ràng của
người mua, kẻ bán,… Cảnh mùa Xuân đầy quyến rũ, đắm say, với bao cảm xúc thiết
tha, đằm thắm. Hình ảnh “đưa người viễn
phố du xuân” đã vút lên một niềm tin ngời sáng, một tình yêu gắn kết keo
sơn giữa con người và thiên nhiên:
Đông
Hà vào xuân rực rỡ
Cánh
mai vàng duyên nợ thi nhân
Hạt
sương đọng trắng lá cành
Hoa
sen trắng tỏa hương thơm ngào ngạt
Đất nước thống nhất, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân
cùng nhau chung tay dựng xây Đông Hà ngày càng to đẹp và đàng hoàng hơn, phố xá
được mở rộng, nhà cao tầng san sát, mọc lên nhanh chóng, những khu công nghiệp,
nhà máy, công ty, xí nghiệp liên doanh trong nước và nước ngoài đã đầu tư, đem
lại nguồn lao động, cung cấp việc làm cho rất nhiều người dân. Nhờ vậy, đời sống
nhân dân ngày càng được ấm no, khởi sắc, giàu có hơn:
Đông
Hà - thành phố ngã ba sông
Em
biết không?
Thành
phố mình đáng yêu là vậy
Chỉ
bảy năm thôi mà biết bao thay đổi:
Đại
lộ Hùng Vương vươn dài từng con phố
Những
tòa nhà nối nhau san sát
Tầng
thấp tầng cao tạo dáng phố phường
Có
ngôi chùa cổ kính thân thương
Tiếng
chuông ngân mỗi sớm mỗi chiều
Đông
Hà phố gợi niềm yêu quê da diết
Phương
trời nào cũng nhớ một ngã ba sông
(Thành
phố ngã ba sông)
Hình ảnh Đông Hà gắn liền với con sông Hiếu huyền thoại,
rất đỗi tự hào. Huyền sử dòng sông Hiếu mãi ngân vang những chiến công đánh đuổi
giặc thù, tiếp nối mạch nguồn của khí linh nguồn cội anh hùng, đảm đang, bất
khuất để cùng “chung lưng đấu cật” dựng
xây, làm nên vóc dáng sinh động của một thành phố trẻ Đông Hà sầm uất trên trục
đường giao thông huyết mạch Bắc - Nam và trên tuyến đường xuyên Á, hành lang
kinh tế Đông - Tây:
Cuộc
chiến qua đi
Sông
lại hát tình ca
Ôi
dòng sông, chở nặng phù sa
Mà
làm nên những cánh đồng, bờ bãi
Tắm
mát bao cuộc đời, dầu dãi nắng mưa
Hiếu
Giang xanh, xanh tựa màu trời
Cửa
Việt trung trinh, nghĩa tình vời vợi
Hồn
thiêng đất nước, âm ba muôn đời
(Huyền sử một dòng sông)
Tôi thiết nghĩ, có rất nhiều nhà thơ, nhà văn viết về
thành phố Đông Hà, nhưng hẳn nhiên vẫn chưa đủ, chưa xứng tầm vóc lịch sử của một
thành phố trẻ, nên do đó cần phải có thêm nhiều cây bút thể hiện tình yêu của
mình qua những tác phẩm truyện ngắn, tiểu thuyết, tùy bút và phóng sự… nữa, mới
làm đầy lên hình ảnh của Đông Hà ở đôi bờ sông Hiếu đang vươn mình lớn dậy từng
ngày trong thời kỳ đổi mới một cách đa dạng và phong phú hơn.
Quê hương thiêng liêng - nơi lưu giữ những mảnh ký ức
sáng trong, tươi đẹp. Nơi đong đầy những tấm lòng, tình yêu thương chân thật,
vì thế trong thơ Nguyễn Văn Trình hiện diện rất nhiều địa danh trên quê hương
mình như Cửa Tùng, Khe Sanh, Lao Bảo, Hải Lăng, Gio Linh, Cồn Tiên, Dốc Miếu…
Cửa Tùng - vùng đất của một thời chiến tranh, đạn bom,
máu lửa, nhưng giờ đây nó đã bừng sáng, mang dáng dấp của một thành phố biển
trong tương lai. Những ngôi nhà kiên cố, cao tầng mọc lên san sát, những nhà
hàng, quán xá khang trang, lộng lẫy, những cồn cát, bãi biển xanh ngắt,… làm
say đắm bao hồn người, lữ khách. Vua Duy Tân đã coi đây là một vịnh nhỏ, có màu
ngọc lục bảo tuyệt đẹp:
Khi
anh về với biển Cửa Tùng
Biển
mặn khiến lòng anh xao xuyến
Gió
hát xôn xao lồng lộng bến bờ
Bãi
Nữ Hoàng thiết tha bao nỗi nhớ
Biết
nói gì trước biển chiều nay
Trước
xanh xa thanh khiết bao ngày
Trước
vẻ đẹp nồng say của biển
Trước
giản dị hồn nhiên cuộc sống con người
(Về với biển Cửa Tùng)
Đúng như dự cảm của nhà thơ Ngô Kha: “Rồi sẽ thấy và nhất định thấy. Một đô thị
vàng trên đồi Lao Bảo. Một thị trấn yêu kiều qua ngã Làng Vây”. Tình yêu
quê hương chính là sức mạnh vô bờ để dựng nên một Khe Sanh, Hướng Hóa giàu đẹp,
văn minh, rất đáng được tự hào. Viết về mảnh đất dấu yêu ở phía Tây của quê
hương mình, Nguyễn Văn Trình đã có những bài thơ khá hay như Khe Sanh ngày mới, Khe Sanh đêm hội quán,...
Đến với những bài thơ này, đọc giả sẽ tưởng chừng như mình đã từng sống và gắn
bó với mảnh đất dấu yêu, vì thế nên cũng đủ để yêu thương, đủ để đất hóa tâm hồn
của mình với hai tiếng gọi quê hương thao thiết:
Anh
đến Khe Sanh một buổi chiều
Nghe
rừng vẫy gọi thác đăm chiêu
Đường
lên uốn lượn theo chiều gió
Dốc
xuống quanh quanh, ấm câu hò
Khe
Sanh mới đó, lung linh quá
Nắng
vàng gió mát dạ chơi vơi
Núi
cao từng dải trời xanh thẳm
Thị
trấn nằm sương núi mây vờn
(Khe Sanh ngày mới)
Tình yêu quê hương của người thơ cũng chính là nguồn
nước mát lành, chảy mãi đổ ra đại dương để hội tụ thành tình yêu đất nước.
Là một nhà giáo, nên luôn bị câu thúc bởi thời gian
công việc giảng dạy và gia đình nhưng Nguyễn Văn Trình vẫn luôn tranh thủ thời
gian của những ngày tháng hè để rong ruổi đến những vùng quê xa xôi của đất nước.
Trong một lần đến Đại Lải, Nguyễn Văn Trình tràn đầy cảm hứng trước cảnh đẹp
sơn thủy hữu tình, đầy thơ mộng đã viết ngay một chùm thơ về mảnh đất này, như:
Chiều Đại Lải, Với Đại Lải, Đại Lải vào
xuân,... chính là một cung bậc của xúc cảm, của tâm trạng chứa đầy niềm
hoan ca, tràn đầy vui sướng trước cảnh và người nơi đây, trước những đổi thay
tươi sáng. Bài thơ Với Đại Lải như
chính tâm hồn rạng ngời, vui tươi của người thơ, nên diễn ngôn trong lập tứ và
ý thơ rất tự nhiên, trong trẻo. Cảnh vật và con người như người bạn tri âm đã mời
gọi nhà thơ từ lâu. Giữa không gian thơ mộng đầy màu sắc, âm thanh của nắng
gió, cỏ hoa, hồ nước trong xanh và sắc lụa Hà Đông rạng ngời em gái chan chứa
nghĩa tình, làm say đắm tâm hồn người thơ:
Nắng
nghiêng chiều soi gương hồ Đại Lải
Gió
mơn man hôn mãi mộng đồi thông
Em
rạng ngời trong sắc lụa Hà Đông
Ôi
Đại Lải ru lòng tôi đến vậy!?
Lời
tự tình hây hây đôi má đỏ
Đại
Lải chiều nắng gió hanh hao
Nắng
rất mỏng xuyên qua từng kẽ lá
Rừng
thông già dạt dào bao giấc mộng
Xanh
tháng năm lặng sóng mặt hồ
Êm
ả thế như tình em đằm thắm
(Với Đại Lải)
Nhà thơ Nguyễn Văn Trình ước mơ ít nhất một lần trong
đời được đến thủ đô Hà Nội và khát khao ấy cũng đã trở thành hiện thực. Thể hiện
tình yêu với Hà Nội – trái tim hồng của cả nước, trong một chuyến đi tham quan
các tỉnh phía Bắc, anh ghé đến Hà Nội và đã sáng tác bài thơ Trong tôi Hà Nội. Đến với bài thơ này, bạn
đọc như được hòa vào không gian đầy thơ mộng, dịu dàng của mùa Thu Hà Nội. Một
mùa Thu yên ả, nắng thu vàng buông chiều, những con phố nhỏ nồng nàn mùi hương
hoa sữa, những hồ nước thoang thoảng thơm ngát mùi hoa sen, những hàng liễu rũ,
bất chợt những cơn mưa rào ngúng nguẩy,... đã đọng lại bao niềm nhung nhớ, luyến
thương:
Hà
Nội trong tôi, nắng vàng dịu ngọt
Mây
lững lờ trôi nhè nhẹ giữa trời thu
Lộc
vừng rơi đầy lối
Hoa
sữa thơm nồng nàn
Màu
lá bàng đỏ thắm
Đọng
bao niềm nhớ nhung
(Trong tôi Hà Nội)
Và đến với xứ Lạng, nhà thơ không chỉ ngỡ ngàng, rạo rực
trước vẻ đẹp của núi đồi quanh co, trùng điệp, nắng chiều khói sương, mà còn
say men tình, hân hoan, hạnh phúc ngọt ngào khi gặp lại người thương, để rồi vấn
vương, ra về chân bước không rời, bời bời nhớ nhung, luyến lưu:
Tôi
lên xứ Lạng tìm em
Tìm
trong câu hát, mênh mang nắng chiều
Đường
đèo nên dạ liêu xiêu
Chập
chùng non thẳm, mắt nhiều khói sương
Ra
về lòng lại vấn vương
Ngàn
thu chân bước, thương thương không rời
Ra
về lại nhớ bời bời
Trăm
năm vẫn đợi, một người trăm năm.
(Tìm về xứ Lạng)
Dẫu biết rằng, tình yêu quê hương, đất nước có diễn
ngôn đến tận cùng của nỗi lòng, thì vẫn không thể diễn tả hết được. Nhưng qua
những bài thơ về quê hương, đất nước của Nguyễn Văn Trình và một số nhà thơ
khác, bạn đọc sẽ cùng đồng cảm với người thơ về tình yêu của mình dành cho quê
hương, đất nước.
Là một người lính viết về người lính, nên hình tượng
người lính trong thơ Nguyễn Văn Trình hiện lên rất đỗi chân thực, như nó vốn
có, như nó vốn tồn tại. Người lính nơi biển đảo Hoàng Sa và Trường Sa ít phải
chịu cảnh vượt suối, trèo đèo vì “ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”, phải “mưa dầm cơm vắt”,… như người lính trong
đất liền. Nhưng người lính biển đảo vẫn có những gian khó, hiểm nguy và những
thử thách nhất định. Ở nơi đầu sóng ngọn gió, một thời chiến tranh, người lính
hải đảo cùng chung ý chí, kiên cường, anh dũng bám đảo, bám biển để gìn giữ bờ
cõi, ngư dân yên tâm tiến ra biển cả đánh bắt hải sản:
Mấy
trăm năm, kiên cường gìn giữ
Tiếng
gươm khua, còn vọng đến bây giờ
Như
lời thề giữ yên bờ cõi
Nơi
đảo xa đêm ngày vẫy gọi
Thiêng
liêng hai tiếng: Tổ quốc mình.
Biển
đảo quê hương hình hài đất nước
Gần
gũi yêu thương, ngõ xóm đường làng
Ta
quyết giữ, hàng trăm hải lý
Thuộc
chủ quyền biển đảo Việt Nam
Để
ngư trường, mãi mãi của ta
Hoàng
- Trường Sa biển đảo là nhà
Đã
bao đời, ông cha gìn giữ.
(Với biển đảo quê hương)
Dẫu biết rằng, những gian khổ, thiếu thốn của người
lính biển đảo không còn như thời chiến tranh. Đất nước hòa bình, kinh tế ngày
càng phát triển, đời sống vật chất cũng như tinh thần ngày càng được cải thiện,
nâng cao hơn rất nhiều. Tuy nhiên, người lính biển đảo vẫn có những thiệt thòi,
mất mát nhất định khi phải sống xa gia đình, vợ con, bạn bè, làng xóm và cả cuộc
sống văn minh nơi đất liền,... Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, khi mà biển
Đông đang “dậy sóng” từng ngày, từng
giờ, biến cố có thể xảy ra bất cứ lúc nào, người lính biển đảo luôn phải đối mặt
với kẻ thù, với sự hy sinh mất mát, thì ý chí, tư tưởng của người lính biển đảo
càng phải mạnh mẽ hơn, quyết một lòng trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân
dân. Và sự thật đã diễn ra trong những ngày hè nóng bỏng của tháng 05 năm 2014
khi Trung Quốc đã ngang nhiên hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trái phép, xâm phạm
vùng biển chủ quyền của nước ta. Hơn chín mươi triệu người con dân Đất Việt
trong cả nước dậy sóng căm hờn, thể hiện lòng yêu nước, thương nòi, thì người
lính biển đảo chẳng hề nao lòng, quyết tâm chặn đứng mộng xâm lăng không để một
tấc biển, tầng trời rơi vào lũ tay giặc chiếm biển đảo:
Bỗng
một chiều, tháng năm thịnh nộ
Bọn
người kia, hùng hổ xâm lăng
Chúng
tham tàn, cướp biển đặt giàn khoan
Trấn
áp ngư dân, tranh giành biển đảo
Biển
đảo quê hương, dậy sóng căm hờn
Dẫu
một tấc biển, tầng trời
Đều
là lãnh thổ ông cha để lại
Ta
quyết giữ, cho đời đời con cháu
Để
mai này, còn biển ra khơi,…
Tháng
năm này, biển Đông dậy sóng
Huế
- Sài gòn - Hà nội,… xuống đường
Yêu
nước thương nòi, ngàn năm sống mãi
Căm
cướp nước, thơ thành mũi chông ngọn giáo
Diệt
tham tàn, chặn đứng mộng xâm lăng
Lòng
yêu nước, chảy trong từng huyết quản
Con
cháu rồng tiên,
Không
khuất phục bao giờ
Ta
nhân nghĩa, chúng thì tàn bạo
Chẳng
nao lòng, quyết tâm giữ đảo.
(Với
biển đảo quê hương)
Trong không khí “nước
sôi lửa bỏng” như thế này, lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận.
Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy” lại một lần nữa đã trỗi dậy một
cách mạnh mẽ trong trái tim của giới văn nghệ sĩ nước ta. Cùng góp chung trên mặt
trận văn hóa nghệ thuật, Nguyễn Văn Trình đã sáng tác bài thơ Với biển đảo quê
hương. Bài thơ ra đời trong bối cảnh như vậy, đã tạo được một sự đồng cảm, làm
lay động hàng triệu trái tim bạn đọc. Bài thơ có một sự tác động to lớn đến
công tác tuyên truyền và vận động toàn dân hướng về biển đảo thiêng liêng của Tổ
quốc thân yêu.
Không những là người lính biển đảo, người lính biên
phòng cũng đã trở thành một hình tượng đẹp trong thơ Nguyễn Văn Trình. Người
lính biên phòng trên các tuyến biên giới nước ta nói chung và Cửa Việt, Quảng
Trị nói riêng đã thầm lặng hy sinh tuổi thanh xuân của mình, mà gánh vác trọng
trách lớn lao của Đảng và nhân dân giao phó, đó là bảo vệ chủ quyền và an ninh
biên giới của Tổ quốc. Người lính biên phòng vì vậy đã được các nhà thơ tôn
vinh, mến yêu dựng lên một hình ảnh đẹp qua những bài thơ trải dài theo năm
tháng lịch sử. Trong số những bài thơ Nguyễn Văn Trình viết về người lính biên
phòng, thì Người lính biên phòng Cửa Việt là một bài thơ khá hay. Bài thơ đã
phác họa được hình ảnh chân thực của những người lính biên phòng ở một số miền
quê khác nhau đến đồn biên phòng Cửa Việt làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Mỗi người
lính có một hoàn cảnh, một tính cách khác nhau, nhưng lại có cùng chung một ý
chí, một lí tưởng, cùng chung tay vượt qua mọi gian khổ, khó khăn, hy sinh tuổi
xuân của mình để bảo vệ biên cương, đất nước. Có những lúc nỗi nhớ quê hương,
nhớ gia đình và người yêu da diết, trĩu nặng, nhưng người lính biên phòng vẫn cố
nén lại, tạm gác tình riêng vì nghĩa lớn. Người lính biên phòng ngày đêm bám trụ
biên cương, kiên định tinh thần vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, sẵn sàng xả
thân trước mọi hiểm nguy, giặc ngoại bang, tội phạm xuyên quốc gia,… để đất nước
được thanh bình, ổn định và thịnh vượng:
Anh
thao thức cùng ngư dân bám biển
Giữ
vững chủ quyền, lãnh hải Việt Nam
Bước
chân anh chưa hề mệt mỏi
Từ
khơi xa, cho tới mỗi bờ gần
Lúc
nào cũng có anh canh giữ
Với
các anh đó là nhiệm vụ thiêng liêng
Cho
hôm nay và cho cả ngày mai giữ biển
Những
người lính Biên phòng Cửa Việt
Trăm
quê riêng, về ở một đồn chung
Đoàn
kết - yêu thương, trong một gia đình
Chung
trách nhiệm: Canh bờ giữ biển
Da
cháy nắng, bởi mặn mòi muối biển
Riêng
nụ cười vẫn sáng mãi tin yêu
Anh
vượt lên những khó khăn gian khổ
Có
những khi nghiệt ngã của đời thường
Ngày
như đêm, quyết hoàn thành trọng trách
Đồn
là nhà, biển đảo là quê hương
(Người lính biên phòng Cửa Việt)
Là một thầy giáo, ở trong ngành giáo dục, nên Nguyễn
Văn Trình cũng đã dành một góc rất riêng trong vườn thơ của mình những bông hoa
tươi thắm nhất về nghề giáo, mái trường, đồng nghiệp, tình thầy trò,... Mảng
thơ viết về đề tài này khá hay, được học sinh, đồng nghiệp yêu mến và được các
nhạc sĩ phổ nhạc như Bài giảng giờ chia
tay, Hoài niệm, Ngày tựu trường, Hãy nuôi dưỡng ước mơ, Trường em, Bài ca trường Phan Châu Trinh, Trường
em trường trung học Lê Lợi...
Nguyễn Văn Trình có quãng đời rất đẹp của tuổi học
sinh. Một thời đi học và cắp sách đến trường cùng bạn bè, thầy cô, trường lớp,...
Vì thế, nó đã trở thành một kỷ niệm đẹp, không thể nhạt nhòa theo năm tháng. Và
rồi, “thế giới khung trời mây trắng” ấy
đã đi suốt Nguyễn Văn Trình một chặng đường dài gần bốn mươi năm làm nghề giáo.
Mái trường vì thế đã trở thành ngôi nhà thứ hai của anh. Nó đã gắn bó, lưu giữ
biết bao kỷ niệm, tình cảm, thương yêu với học trò, với đồng nghiệp. Tình yêu đẹp
ấy đã được hóa thân để viết lên những vần thơ ngọt ngào, thắm thiết, ngợi ca,
hãnh diện khi nhà thơ được dạy học ở mái trường mang tên của nhà chí sĩ yêu nước
Phan Châu Trinh:
Tự
hào trường em, mang tên người chí sĩ
Chí
sĩ Việt Nam vì nước quên mình
Phan
Châu Trinh - Đông Hà trường em
Vì
tương lai, vì ngày mai tươi sáng
Học
hành chăm ngoan, quyết chí hăng say
Nắm
chắc thành công bước vào ngày mới
Mái
trường tầng cao, dạt dào yêu mến
Phan
Châu Trinh - Đông Hà trường em
(Bài
ca trường Phan Châu Trinh)
Hãy nuôi dưỡng ước mơ là một bài thơ giàu tính nhân
văn, thể hiện tâm huyết của người thơ đối với nghề giáo. Từng chữ, từng câu
trong bài thơ chính là lời khuyên, sự răn dạy của anh đối với học trò của mình
cũng như đối với thế hệ trẻ hôm nay phải biết dưỡng nuôi những ước mơ, dự định
tương lai. Với sự tâm huyết, nỗ lực bước đi trên chính đôi chân của mình, thì sẽ
vượt qua được mọi khó khăn, gian khổ và thành công, tương lai tươi sáng, tốt đẹp:
Cuộc
sống, có muôn ngàn cái đích vươn tới
Hãy
chọn cho mình, một lối đi riêng
Em
sẽ thấy, cuộc sống này đáng yêu biết mấy
Trời
trên đầu vẫn xanh
Đất
dưới chân, vẫn bình yên nồng ấm
(Hãy nuôi dưỡng ước mơ)
Gần bốn mươi năm dạy học, có bao thế hệ học trò, thì
có bấy nhiêu tâm trạng, nỗi niềm. Mỗi thế hệ học trò, mỗi lớp học và mỗi học
sinh đều được nhà thơ - thầy giáo Nguyễn Văn Trình nâng niu, dạy bảo, xem như
người con, người em của mình, nên khi các em chuẩn bị ra trường, chia tay là những
lần chất chứa đầy tâm trạng ngậm ngùi, rưng rức nước mắt:
Đó
là bài giảng cuối cùng cho em
Mà
sáng nay thầy giảng
Và
bắt đầu một cuộc chia tay
Vội
vàng cái buổi chia tay
Không
phải lần đầu sao thầy rưng rức
Cả
lớp nôn nao một thoáng ngậm ngùi
Rồi
tiếng cười thay nước mắt
(Bài giảng giờ chia tay)
Trong “dàn đại hợp
xướng” thơ Nguyễn Văn Trình, có sự hiện diện những giai điệu ngọt ngào, du
dương, đầy lãng mạn về tình yêu đôi lứa, đó cũng là chuyện thường tình. Vì rằng,
trái tim của nhà thơ cũng đa cảm như bao người ở cõi nhân gian này. Tình yêu
trong thơ anh thuộc về thì quá khứ - cái thì chất chứa bao hoài niệm của một thời
xa vắng. Nhưng cái tình yêu ấy, kết thúc không được viên mãn, tròn đầy, vì thế
hương vị tình yêu chất chứa nỗi buồn, nuối tiếc. Người thơ vương vấn nỗi buồn
tình yêu của cái thuở ban đầu trắng trong, tinh khiết như pha lê:
Áo
trắng - Em giờ xa xôi rứa?
Để
ai về, ngồi đếm giọt mưa rơi
Hỏi
còn không
Ai
thắp ngọn lửa bên trời!
Mong
sưởi ấm
Những
chiều cô quạnh.
(Áo trắng
bên trời)
“Em
giờ xa xôi rứa?” – chính là một câu hỏi không lời đáp, vọng
từ trái tim của nhà thơ về một mối tình đẹp của một thời hoa mộng không vẹn
nguyên, không đơm nở được hạnh phúc tròn đầy theo năm tháng. Em hôm nay không
như hôm qua, em giờ xa xôi, em giờ có góc trời riêng, hạnh phúc với mái ấm nhỏ.
Câu thơ bật ra nghe thảng thốt một nỗi niềm cô quạnh, buồn da thiết của tác giả.
Cái thời yêu ấy đã đi vào dĩ vãng nhưng thi sĩ vẫn cứ ngỡ như vừa mới hôm qua,
vừa mới bị mất thôi. Tình yêu để lại cho người thơ một kỷ niệm buồn - một nỗi
buồn có phần nặng nợ, đa mang:
Ai
ngu ngơ
Ảnh
hình trong ký ức
Vu
vơ buồn
Lạc
lối chiều buông
Áo
trắng phôi pha, áo thành dĩ vãng
Để
suốt đời, nặng nợ đa mang
(Áo trắng bên trời)
Cái tình buồn ấy, không chỉ đọng lại ở thuở áo trắng,
mà còn cả cái thời “bình minh” của cuộc
đời. Em về cho ai chơi vơi, Nắng chiêm bao, Em về tinh khôi,... là những bài
thơ đều mang dự cảm của sự chia lìa, vỡ tan. Thậm chí khi đã trưởng thành, có sự
nghiệp, mong muốn được chung tay xây đắp tổ ấm gia đình nhỏ với người mình
thương mến nhưng vẫn không thành, để lại trong anh một nỗi buồn chơi vơi, rã rời:
Em
về bên ấy chiều nay
Một
trời thương nhớ, heo may một trời
Câu
ca mái nặng chơi vơi
Dòng
sông như cũng rã rời, buồn tênh.
Em
về bên ấy nắng hanh
Hay
mưa nhòa nhạt, chân thành ngày xưa
Em
về buốt tím hoa mua
Đường côi mấy nẻo, gió lùa hồn anh.
(Em về bên ấy)
Thơ tình Nguyễn Văn Trình nhuốm đầy sắc màu của nỗi buồn
da diết, nhưng đó lại là một nỗi buồn đẹp, một nỗi buồn không lụy, một nỗi buồn
trong trẻo của một tình yêu luôn tận hiến cả trái tim mình cho người mình yêu.
Vì thế mà, nhật ký tình yêu mang đầy nỗi ám ảnh của sự cô đơn, rạn vỡ, hoang
mang nhưng người thơ vẫn không hối tiếc.
Trong phạm vi hạn chế của một bài viết không thể nói hết
những cái hay, cái đẹp của thơ Nguyễn Văn Trình, nên tôi viết đôi điều cảm nhận
này theo cách nghĩ, cách cảm của riêng mình, để nhằm góp phần phác họa một
gương mặt thơ khá tiêu biểu ở một vùng đất Quảng Trị đầy nắng gió, mưa dầm. Đôi
cánh thơ Nguyễn Văn Trình tự thân đã có sẵn hương thơm tỏa ngát trong vườn thơ
như một sự vẫy gọi bạn đọc cùng đồng hành, cùng sáng tạo. Với tài năng và lực
bút của mình, tôi cũng như bạn đọc hy vọng nhà thơ - nhà giáo Nguyễn Văn Trình
trên hành trình Miệt mài chảy mãi tháng năm trôi sẽ làm nên một chứng chỉ thi
ca trong lòng bạn đọc gần xa, trong và ngoài nước.
Portland, ngày 28 tháng 02 năm 2019
TS Bùi Như Hải
Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 310/2020
No comments:
Post a Comment