Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Saturday, March 31, 2018

MỪNG CHÚA PHỤC SINH - Thơ Trần Mai Ngân



                      Nhà thơ Trần Mai Ngân


MỪNG CHÚA PHỤC SINH
(Tặng Ngoc Huynh Kim, gia đình chị Kinh LY và những ai là con của Chúa)

Tôn vinh Chúa dù con ngoại đạo
Người hy sinh trên thập giá cao
Lời thứ tha nhân loại bàng hoàng
Ngài sống lại sau ba ngày chết

Hãy tin nhau và tìm đi tới
Quỳ dưới chân xưng tội cùng Ngài
Xin ân sũng đạo Trời chân thật
Để ta thấy cuộc đời như mật
Ngọt từ hoa từ trái hôm nay...

Hân hoan suy niệm ta mừng Ngài
Và nhận lấy hồng ân vinh phước
Người cạnh người niềm tin ao ước
Bỏ dối lừa nguy hại lẫn nhau

Chúa đã về và ngự trên cao
Rãi hương thơm trong vườn nhân loại
Sống trong lẽ cuộc đời tươi mới
Người với người chỉ nói yêu nhau...

Cho ngày lễ Phục Sinh 1-4-2018
              Trần Mai Ngân

READ MORE - MỪNG CHÚA PHỤC SINH - Thơ Trần Mai Ngân

BÌNH THƠ KHÔNG BÀN THI PHÁP - Phạm Đức Nhì

  
             Tác giả Phạm Đức Nhì

  

 BÌNH THƠ KHÔNG BÀN THI PHÁP

 (Bài 3 trong loạt bài về Hồn Thơ)

Thi Pháp Là Gì?

Trong ebook Toàn Cảnh Thi Pháp Học của GS/TS Trần Đình Sử có hai định nghĩa thi pháp học đáng chú ý:

 1/ V. Girmunski : “Thi pháp học là khoa học nghiên cứu thi ca (tức là văn học) như là một nghệ thuật.”

Định nghĩa này quá rộng nhắm vào nhiệm vụ của thi pháp học. (1) 

2/ Viacheslav Ivanov: “Thi pháp học là khoa học về cấu tạo của tác phẩm văn học và hệ thống các phương tiện thẩm mỹ được sử dụng trong đó. (1)

Định nghĩa của Viacheslav Ivanov tuy có cụ thể hơn một tý nhưng cũng nói đến “tác phẩm văn học” nghĩa là vùng phủ sóng cũng vượt quá phạm vi của bài viết này.

3/ Thi pháp nếu hiểu theo nghĩa hẹp (“thi” là thi ca chứ không phải văn học) là phương pháp, quy tắc làm thơ; cũng có thể hiểu là luật thơ.

Bàn đến thi pháp là bàn đến hình thức của bài thơ - cách sắp xếp con chữ, sử dụng vần điệu và ảnh hưởng của nó đối với giá trị nghệ thật của bài thơ.

Đối với thơ, theo tôi, thi pháp có thể định nghĩa như sau:

Thi pháp (poetics) là phương pháp, quy tắc làm thơ - sử dụng vần, nhịp điệu (và các phương tiện thẩm mỹ khác của thơ) nối kết các con chữ thành một thế trận để chuyển tải thông điệp và cảm xúc của thi sĩ đến độc giả.

Các phương tiện thẩm mỹ thường thấy trong thơ là vần, nhịp điệu, số chữ trong câu, số câu trong bài, các biện pháp tu từ …

Ảnh Hưởng Của Thi Pháp Đối Với Giá Trị Nghệ Thuật Của Bài Thơ


1/ Số chữ trong câu: Ảnh hưởng đến nhịp điệu của bài thơ.

Số chữ trong câu cố định sẽ dẫn đến nhịp điệu đều đặn, nhàm chán.
Số chữ trong câu thay đổi sẽ tạo nhịp điệu khác lạ, giảm bớt cảm giác nhàm chán khi đọc thơ, nhất là bài thơ dài. Biên độ thay đổi càng rộng nhịp điệu càng khác lạ, đọc thơ càng có cảm giác thích thú, khoan khoái. Hơn nữa, việc thay đổi số chữ trong câu chứng tỏ tác giả đã phần nào thoát khỏi những ràng buộc của thể thơ, biểu lộ phong thái ung dung, thoải mái - rất cần thiết để nhen nhúm hồn thơ.

2/ Số câu trong bài: Thoải mái, tùy tiện nhưng đừng quá ngắn.

Xin trích lời một anh bạn trong buổi nhậu (đã thay đổi chút ít cho phù hợp với khung cảnh bài viết):

Bài thơ ngắn quá (4 câu hoặc ít hơn) không đủ để tác giả bày tỏ tâm trạng của mình, không đủ để cảm xúc lớn mạnh tạo thành cao trào. Nếu thành công, nó như một nụ hôn phớt trên má, tạo ra chút xao động trong lòng người đọc nhạy cảm. Nếu thất bại, nó cho cảm giác bực mình như làm tình với anh chàng ‘sậu tinh’, chưa đi đến chợ đã hết tiền, mệt người mà chẳng nên cơm cháo gì”.

2/ Vần:

Với thi sĩ, vần giúp nối kết những ý tưởng, sự kiện, những mảnh tâm tình thành một xâu chuỗi khiến bài thơ liền mạch, nhất khí. Trong bài thơ có vần (ngoại trừ thể thơ mới trường thiên từng đoạn 4 câu) tứ thơ và cảm xúc chảy thành dòng, lớn mạnh nhanh chóng nhờ sóng sau dồn sóng trước. Khi thi sĩ đang cao hứng, “lên cơn”, dòng cảm xúc liền mạch, trôi nhanh đó giúp tứ thơ tuôn trào, không có “thời gian chết” để lý trí xuất hiện, tạo cơ hội cho hồn thơ hình thành.

Với độc giả, vần là thuốc dẫn, là thứ “dầu bôi trơn” giúp thông điệp của bài thơ theo dòng cảm xúc trôi nhanh vào hồn. Nhờ thứ “dầu bôi trơn” ấy độc giả “cảm” được tâm tình của thi sĩ một cách dễ dàng hơn, (có thể) không phải trải qua tiến trình suy nghĩ, tránh được (hoặc giảm thiểu) sự chen vào can thiệp của lý trí để cuối cùng có thể bắt gặp hồn thơ (nếu có). (2)

Nhưng vần là con dao hai lưỡi:

     a/ Quá ngọt: Sẽ có hội chứng nhàm chán vần, đọc nghe rất ngán - nhất là khi tứ thơ không thẳng hướng tới đích mà cứ cà kê dê ngỗng chạy lòng vòng.
     b/ Quá nhạt hoặc không vần: Trúc trắc, khó đọc, dòng chảy của tứ thơ không trơn, những khoảng ngắn ngừng nghỉ sẽ là cơ hội để lý trí xuất hiện.

3/ Dòng chảy của tứ thơ

     a/ Đứt đoạn, phân mảnh: Tứ thơ phân tán, mỗi đọan là một ý nhỏ, cảm xúc chưa kịp tích tụ đã tan, cực khó có hồn thơ
     b/ Nhất khí liền mạch: Tứ thơ chảy thành dòng, ý này nối kết với ý kia cho đến hết bài. Nếu thi sĩ cao hứng và thế trận bài thơ hợp lý sẽ có cơ hội có cảm xúc tầng 3, có cơ hội tạo được cao trào, có cơ hội có hồn thơ.
     c/ Tốc độ của dòng chảy càng nhanh, hơi thơ càng mạnh, cảm xúc càng dạt dào.

4/ Cảm xúc: Mức độ cảm xúc có được là kết quả của sự phối hợp các phương tiện thẩm mỹ của bài thơ mà giới phê bình gọi là thi pháp.
     a/ Cảm xúc tầng 1: Cảm giác khoan khoái, sung sướng khi gặp được một chữ “đắt”, một cụm từ sang, đẹp, một biện pháp tu từ độc đáo hoặc một câu thơ hay. (Kỹ thuật cá nhân của cầu thủ)
     b/ Cảm xúc tầng 2: Cảm giác sung sướng khi thấy sự kết nối các câu, các ý, các đoạn thành một thế trận liền lạc, hợp lý, hiệu quả để đưa tứ thơ đến “bến đỗ”. (Đấu pháp toàn đội)
     c/ Cảm xúc tầng 3: Cảm giác ngây ngất khi “bắt” được cái hơi nóng cảm xúc, không phải từ các con chữ của bài thơ mà từ đâu đó giữa những hàng kẻ. Cái hơi nóng cảm xúc đó được “thổi” vào bài thơ do tâm thái cao hứng, nổi đìên, lạc thần trí của tác giả. Đây là loại cảm xúc cho độc giả cái cảm giá sảng khoái nhất, “đã” nhất. Nếu cảm xúc tầng 3 mạnh đến mức chảy thành dòng, sóng sau dồn sóng trước lên đến đỉnh điểm, bài thơ có cao trào, hồn thơ xuất hiện. (Trận đấu có hồn) Lúc đó “cái tôi văn hóa” của tác giả đã trốn mất để “cái tôi đích thực” lộ diện, lời thơ là những tiếng lòng chân thật từ một Con Người (viết hoa). Bài thơ đã đạt được phần thưởng cao quý nhất - bước vào “Bến Bờ Thi Ca”.


Khuyết Điểm Về Mặt Thi Pháp Của “Thềm Xưa Em Đợi Người Về”

THỀM XƯA EM ĐỢI NGƯỜI VỀ

Em đợi người bên Thềm Xưa trầm lắng
nhặt bâng quơ hạt nắng ngủ trên bàn
ly phin đá nhẩn nha từng giọt đắng
nhặt hoài mong lạc mười ngón tay đan.

Em khắc khoải đợi một dòng tin nhắn
thèm giật mình khi nghe tiếng chuông reo
chiếc điện thoại cũng tảng lờ im ắng
ném niềm vui như chiếc lá bay vèo.

Mắt ngân ngấn “Người ơi” - em khẽ gọi
đợi tiếng người trầm ấm phía bên kia
mà: “… rất tiếc, số này không kết nối”
ngỡ trời tình ai thổi tắt trăng khuya.

Buồn vây ráp đêm dài thêm sợi tóc
tựa vào đâu ấm áp một bờ vai?
em cố dặn: thôi đừng mau mắt khóc
dẫu muộn phiền có thể chẳng nguôi khuây.

Người gieo lại nửa hồn nghe ngơ ngẩn
nửa trên tay em bồng nắng về rừng
như thạch thảo bên tường mưa ướt cánh
nghe con chim góa bụa hót rưng rưng.

Em khờ khạo xới lên miền cổ tích
như mối đùn trăm nỗi nhớ về nhau
khi yêu dấu môi hôn chưa nhàm nhạt
ai cam tâm hờ hững tự khi nào?

HÀ NHỮ UYÊN

(Bài này Châu Thạch đã viết lời bình với tựa “Cảm Nhận ‘Thềm Xưa Em Đợi Người Về’ – Thơ Hà Nhữ Uyên” nhưng anh đã chỉ bình tán ý tứ mà không bàn thi pháp. Độc giả có thể đọc bài bình của Châu Thạch theo link sau đây:http://www.bongtram.com/2016/03/cam-nhan-them-xua-em-oi-nguoi-ve-tho-ha.html

1/ Nhịp điệu: Mỗi câu 8 chữ, mỗi đoạn 4 câu, đọc lên nhịp điệu đều đặn tẻ nhạt. Tác giả tự trói buộc mình trong quy luật của thơ mới nên tâm thế, phong thái không được tự do.

2/ Vần: Vần gieo cả 1/3 lẫn 2/4 kỹ lưỡng (6 đoạn 12 cặp vần, không bỏ sót cặp nào), có nhiều cặp gieo chính vận nên hội chứng nhàm chán vần rất nặng, đọc 2 đoạn đã thấy giọng “ầu ơ”. Thêm vào đó, tác giả lại còn chơi cả yêu vận (vần lưng):

Chữ “nắng” (câu 2 đoạn 1) vần với “lắng” (câu 1 đoạn 1)
Chữ “nối” (câu 3 đoạn 3) vần với “thổi” (câu 4 đoạn 3)
Chữ “tóc” (câu 1 đoạn 4) vần với “áp” (câu 2 đoạn 4)
Chữ “ngẩn” (câu 1 đoạn 5) vần với “nắng” (câu 2 đoạn 5)

Và điệp vận (vần “ắng”) không cần thiết: Câu 1, câu 3 đoạn 1 và câu 1, câu 3 đoạn 2

Nhìn cách gieo vần của bài thơ mà thấy “thương” cho thái độ phục tùng của tác giả đối với quy luật gieo vần. Một lần nữa lại biểu hiện phong thái e dè lệ thuộc.

3/ Dòng chảy của tứ thơ: Bài thơ gồm 6 đoạn, mỗi đoạn 4 câu diễn tả một ý riêng biệt; từ đoạn trước sang đoạn sau không bắt vần nên tứ thơ đứt đoạn, phân tán, không có dòng chảy.

4/ Cảm xúc: Cảm xúc tạo được ở đoạn nào nằm tại đoạn đó, không chảy thành dòng để có sự tiếp nối “sóng sau dồn sóng trước” tạo cao trào, hình thành hồn thơ. Cảm xúc phần lớn ở tầng 1 (câu, chữ hay), rất ít ở tầng 2 (thế trận), hoàn toàn không có cảm xúc ở tầng 3 (cao hứng, nổi điên). Với vóc dáng này TXEĐNV chắc chắn không thể có hồn thơ.

Bình thơ mà không bàn đến thi pháp nên Châu Thạch đã bỏ qua nhiều khuyết điểm và đã nâng giá trị của bài thơ lên một cách bất công. Tệ hại hơn, anh đã ngợi khen quá lố một bài thơ có những điểm yếu cơ bản, thổi vào hồn tác giả một niềm tự hào thiếu căn cứ để nảy sinh tâm lý tự mãn.

Đôi Lời Với Tác Giả Bài Thơ “Thềm Xưa Em Đợi Người Về”

Tôi hoàn toàn không quen biết anh Hà Nhữ Uyên và bài thơ Thềm Xưa Em Đợi Người Về tôi chỉ mới “gặp” lần đầu khi viết bài này. Bài thơ của anh những nét đẹp về ngôn ngữ, hình tượng, ý tứ thì nhà phê bình Châu Thạch đã phân tích đầy đủ, có phần ưu ái. Tôi chỉ bàn đến những cái “sót” của anh Châu Thạch khi anh bình thơ mà phớt lờ thi pháp – “cách sắp xếp con chữ, sử dụng vần điệu và ảnh hưởng của nó đối với giá trị nghệ thật của bài thơ”.

Mỗi nhà phê bình đều có “ý đồ” riêng trong bài viết của mình. Trước tiên, bài thơ của anh Hà Nhữ Uyên rất tình cờ lọt vào tầm ngắm của tôi. Đọc kỹ, thấy nó là một thí dụ minh họa rất hợp với mục tiêu của bài viết. Tôi biết bị một cặp mắt nhìn soi mói vào khuyết điểm bài thơ của mình tác giả nào cũng có cảm giác khó chịu, nhưng xin anh Hà Nhữ Uyên hiểu và thông cảm cho. Tôi chọn bài của anh vì tiện đường đi tìm cái đẹp của Thi Ca chứ không vì ác cảm cá nhân.

Thuở còn ở Trung Học, khi được hỏi “Làm thơ nên chọn thể thơ nào?”, thầy giáo dậy Việt Văn có lần nói với tôi “Cái đó tùy tạng, tùy sở thích của mỗi người; trên trang thơ của mình thi sĩ được toàn quyền tự do chọn lựa.” Sau nhiều năm tìm vui với thơ, tôi lại được các bạn trẻ hỏi cái câu hỏi tôi đã hỏi thầy giáo tôi ngày xưa. Và vì dòng đời thay đổi, cách nhìn nhận thi ca cũng đổi thay; câu trả lời của tôi cũng khác câu trả lời của ông thầy mà tôi hết lòng yêu mến. “Hãy chọn thể thơ thông thoáng, không phân mảnh đứt đoạn, để tứ thơ và cảm xúc của mình có thể chảy thành dòng, sóng sau dồn sóng trước, có cơ hội tạo cao trào để hồn thơ xuất hiện.” Rất mong anh Hà Nhữ Uyên coi câu trả lời ấy như một đề nghị chân tình.

Ưu Điểm Về Mặt Thi Pháp Của “Quê Nghèo”:

QUÊ NGHÈO

Quê tôi nghèo lắm
Vẫn lác đác nhà tranh
Vẫn tiếng thở dài những chiều giáp hạt
Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặn chát
Cha cả đời lam lũ
Mẹ một đời chắt chiu
Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ
Tuổi thơ tôi đói ngủ
Thương cánh cò bấu bíu lời ru.
.
Quê tôi nghèo lắm
Phiên chợ còn èo ợt nghèo hơn
Dăm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Mẹt sắn, mẹt ngô
Í ới mời chào cao hơn mời cỗ
Lèo tèo dăm người bán
Lẻ tẻ mấy người mua
Ế bán
Chán mua
Phiên chợ quê xác xơ già cỗi.
.
Quê tôi nghèo lắm
Lũ trẻ gầy như con cá mắm
Lũ trai mặt mũi mốc meo
Gặm nhấm nỗi đau nghèo khó
Nơm nớp âu lo đời như chiếu bạc
Thương con cò con vạc
Mỏi cổ chồn chân trên đồng đất của mình.
.
Quê tôi nghèo lắm
Nước mắt rơi từ thời chị Dậu
Tiếng oan khiên từ thời Giáo Thứ
Âm ỉ bủa quanh
Bám đeo đặc quánh
Chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp
Sừng sững bê tông cốt thép
Ngạo nghễ tượng đài
Ngạo nghễ trần ai
Chiếc cổng làng thành tai hại
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ.
.
Quê tôi nghèo
Nghèo cả giấc mơ...
*.
Hưng Yên, chiều 29 tháng 12 năm 2014
ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Bài này nhà phê bình Nguyễn Bàng đã viết lời bình với tựa Quê Nghèo – Nghèo Đến Xót Xa Cõi Lòng. Còn ông Bùi Đồng cũng bình bài thơ nhưng chọn cái tựa khác hơn một tý: Quê Nghèo – Xót Xa Những Tiếng Lòng. Giống như Châu Thạch, hai ông cũng chỉ bình tán ý tứ mà không bàn thi pháp. Độc giả có thể đọc cả hai bài bình thơ theo hai cái links sau đây:


1/ Nhịp điệu: Số câu trong bài không bị bó buộc, viết hết ý thì thôi; số chữ trong câu tùy tiện, không theo một quy luật nào nên nhịp điệu khác lạ, tránh được cảm giác đơn điệu, nhàm chán. Tốc độ dòng chảy của tứ thơ khá nhanh, thay đổi theo cảm xúc, tạo mối giao cảm trực tiếp với độc giả ngay trên từng con chữ. Thêm vào đó, cách phân bổ các con chữ, câu, đoạn trong bài thơ biểu lộ một tâm thế, một phong thái tự do, thoải mái.  

2/ Vần: Tôi có cảm tưởng tác giả không chủ ý gieo vần nhưng các con chữ tuôn ra trong lúc tình thương mến quê dâng cao cứ tự động kết nối với nhau thành từng mảng trong đó đã có vần một cách tự nhiên. Riêng đoạn 2 và phần đầu đoạn 4 không có vần nhưng đọc lên - nhờ nhịp điệu - vẫn trơn tru thoải mái như ăn chè vừa đủ độ ngọt.

Quê tôi nghèo lắm
Phiên chợ còn èo ợt nghèo hơn
Dăm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Mẹt sắn, mẹt ngô
Í ới mời chào cao hơn mời cỗ
Lèo tèo dăm người bán
Lẻ tẻ mấy người mua
Ế bán
Chán mua
Phiên chợ quê xác xơ già cỗi.

Và:

Quê tôi nghèo lắm
Nước mắt rơi từ thời chị Dậu
Tiếng oan khiên từ thời Giáo Thứ
Âm ỉ bủa quanh
Bám đeo đặc quánh

Không biết do tác giả có tài hay do may mắn. Tôi nghĩ có lẽ cả hai.

3/ Dòng chảy của tứ thơ: Hình ảnh, sự kiện nối tiếp nhau chảy thành dòng trên con kênh mà lòng kênh là câu thơ  chủ  đạo “Quê tôi nghèo lắm”. Chính nhờ tứ thơ nhất khí liền mạch chảy thành dòng nên đã có sóng sau dồn sóng trước để tạo cơ hội cho cảm xúc tầng 3 xuất hiện.

4/ Cảm xúc: Cảm xúc tầng 1 khá mạnh toát ra từ câu chữ; cảm xúc tầng 2 cũng đáng kể do thế trận tuy chưa hoàn toàn hợp lý, mạch lạc nhưng cũng không đến nỗi phân tán, rời rạc. Thêm vào đó, nhờ nhịp điệu nhanh nên đã có xuất hiện cảm xúc tầng 3 - thứ cảm xúc cao cấp nhất trong thơ – nhưng chưa đủ mạnh để tạo hồn thơ. Lý do: tác giả không tạo được cao trào, và do đó, đoạn kết thiếu ấn tượng.


Đôi Lời Với Tác Giả Bài Thơ “Quê Nghèo”

Tôi đã để ý đến “cách làm thơ” của Đặng Xuân Xuyến từ khá lâu mặc dù đã có lần “đụng chạm” với anh rất nặng. Về mặt thi pháp, anh (và vài nhà thơ khác) đã đi trước rất nhiều người trong cái cộng đồng yêu thơ quy tụ quanh trang web của anh và một số trang web lân cận. Muốn đem một bài thơ nào đó của anh ra mổ xẻ để “mách nước” cho anh bứt phá chạy mau đến “bến bờ thi ca” nhưng hình như “không có duyên”; tôi thường đi sau thiên hạ một bước. Hôm nay nhân dịp viết loạt bài về hồn thơ tôi để ý đến bài Quê Nghèo của anh. Thật tình, đây là bài thơ còn khá xa mới đến mức hoàn hảo. Có đến vài chỗ sai phạm, hoặc nếu không sai phạm thì cũng chưa hoàn chỉnh, có thể o bế, trau chuốt để bài thơ hay hơn. Nhưng rõ ràng với cách sắp xếp con chữ và sử dụng vần điệu khá nhuyễn anh đã tạo cho bài thơ của mình cái vóc dáng của một lãng tử phiêu du, không bị trói buộc bởi “gia quy, lệ làng, phép nước”; tứ thơ đã chảy thành dòng, và cảm xúc có đôi chỗ mức gia tăng đã nhiều hơn cấp số cộng. Mặc dầu bài thơ đã có (ít nhất) hai người bình nhưng cả hai (Nguyễn Bàng và Bùi Đồng) đều không bàn thi pháp nên kỹ thuật thơ của anh, cái “tài thơ” của anh bị lãng quên.

Theo tôi, riêng về phần kỹ thuật thơ, anh đã có đủ điều kiện để viết bài thơ để đời của mình. So với Ngọc Mai - người tôi nói đến ở bài 2 – anh có nhiều ưu điểm hơn, đặc biệt là thể thơ và cách nhìn phóng khoáng về cuộc sống. Nói theo ngôn ngữ bóng đá anh cần để ý thêm về đấu pháp toàn đội (thế trận), cách ghi bàn thắng thật đẹp (đoạn kết) và gây hưng phấn cho cầu thủ của đội bóng (trạng thái cao hứng của thi sĩ). Nếu anh tiếp tục “thai nghén” một tứ thơ đắc ý nào đó rồi gắng chờ đến lúc “óc ách’, khó chịu, không “xì” ra không được. Lúc ấy mà “mở bầu tâm sự” thì với thi pháp của anh cơ hội tặng cho đời một đứa con “sáng giá” sẽ rất cao.

Thơ Đến Từ Đâu?

Khi làm thơ thi sĩ sẽ ở 1 trong 3 tâm thế (trạng thái của tâm) sau đây:

1/ Muốn phân tích phải trái, nói lý lẽ với độc giả (Reason With Them)

Với tâm thế ấy thi sĩ sẽ viết ra bài vè như khá nhiều những “bài thơ” của Thái Bá Tân. Ý tưởng mạch lạc, có vần điệu nhưng chỉ là sản phẩm của lý trí, hoàn toàn vắng bóng cảm xúc.

2/ Tâm sự, chia sẻ cảm xúc với độc giả (Share feelings with them)

Đại đa số thơ chúng ta thường đọc thuộc loại này. Thơ có cảm xúc nhưng cũng có sự kiểm soát của lý trí.

3/ Xả, trút cái khối yêu thương, thù hận, uẩn ức … chất chứa trong lòng. (Get it off your chest)

Lúc ấy thi sĩ đã nổi cơn điên, lạc thần trí; ngài đã vứt bỏ chiếc áo “cái tôi văn hóa” để trở về với “cái tôi đích thực” của mình. Trước mắt ngài sẽ chẳng có độc giả; ngài sẽ chẳng viết cho ai cả; ngài chỉ muốn nói ra, viết ra cho nhẹ lòng, nhẹ bụng. Nếu kỹ thuật thơ nhuần nhuyễn đến một mức nào đó, bài thơ viết ra sẽ rất nhiều cơ hội có hồn.

Bình Thơ Không Bàn Thi Pháp - Đầu Mối Của Bất Công.

Bình thơ không bàn thi pháp chắc chắn sẽ dẫn đến bất công. Người bình chỉ chú ý đến ý tứ, còn kỹ thuật thơ thì “ngoảnh mặt làm ngơ”. Tác giả bài thơ đã có “tay nghề” cao hay vẫn còn lẹt đẹt ở phía sau cũng đều được đánh giá giống nhau, cá mè một lứa. Người may mắn có được những bước chân khai phá đi đúng hướng bến bờ thi ca thì vì mang tâm trạng nửa tin, nửa ngờ, không có người biết chuyện chia sẻ, thông cảm, khuyến khích nên vẫn cứ ngập ngừng, vừa bước vừa run; nếu bất ngờ đụng phải một trở ngại nhỏ cũng dễ dàng bỏ cuộc. Người vẫn còn lẹt đẹt - nhưng lại không biết mình ở phía sau - vẫn cứ tiếp tục đi, lắm lúc còn ưỡn ngực tự hào dù thực sự đang quanh đi quẩn lại, bì bõm trong vũng sình lầy lội.   

Với thơ, cảm xúc gần như là tất cả, thông điệp chỉ là thứ yếu. Dĩ nhiên, tứ thơ hay cũng góp phần nâng giá trị của bài thơ nhưng chính cảm xúc mới có thể đưa bài thơ lên “đài danh vọng”, mới giúp bài thơ chiếm một vị trí trang trọng trong lòng độc giả, mới tạo nên sự cách biệt giữa một tuyệt tác thi ca với những bài thơ làng nhàng.
Muốn “đo” khối lượng cảm xúc của một bài thơ nhà phê bình trước hết phải “cảm đoán” xem thi sĩ viết bài thơ với tâm thế nào. Nếu ngài “trút bầu tâm sự” lên trang giấy thì bài thơ dễ có nhiều cảm xúc và có cơ hội đạt danh hiệu cao quý: “Bài Thơ Có Hồn”. Đến đây nhà phê bình phải dùng chiêu thi pháp để tìm kết quả. Vần, nhịp điệu và các phương tiên thẩm mỹ khác sẽ được đưa lên bàn mổ để xem có nối kết các con chữ thành một thế trận hoàn hảo và có tạo được cao trào không?

Bởi vậy nếu không bàn thi pháp thì sẽ rất khó nhận biết cảm xúc tầng 3 - thứ cảm xúc cao cấp đến từ trạng thái cao hứng của thi sĩ – và đỉnh điểm của nó là hồn thơ. Không làm được điều đó, theo tôi, bài bình thơ thất bại.

Kết Luận

Thưa các nhà bình thơ Châu Thạch, Nguyễn Bàng và Bùi Đồng,
Thưa tất cả những nhà phê bình thuộc trường phái Bình Thơ Không Bàn Thi Pháp,
Với lối bình thơ ấy quý vị đã đối xử với bài thơ như một đoạn văn không hơn, không kém. Tâm của quý vị có thể chính trực nhưng lời bình của quý vị lại thiên vị, bất công, thơ hay thơ dở đánh lộn sòng. Bao nhiêu những tố chất để làm nên “tính thơ” quý vị đều phớt lờ. Quý vị đã cầm dao đâm chết bài thơ trước khi viết lời bình. Những phân tích, bàn tán hoa mỹ của quý vị chỉ là những cánh hoa phủ lên một “cái xác không hồn”, một bài thơ không có “tính thơ”.

Xin những người yêu thơ hãy lên tiếng để cứu thơ. Nếu không, một ngày nào đó thơ – cái thứ thơ mà chúng ta trân trọng yêu quý - sẽ không còn nữa.

Phạm Đức Nhì


2/ Một Cách Nhìn Khác Về Vai Trò Của Vần Trong Thơ, Phạm Đức Nhì,phamnhibinhtho.blogspot.com http://phamnhibinhtho.blogspot.com/2017/02/mot-cach-nhin-khac-ve-vai-tro-cua-van.html

READ MORE - BÌNH THƠ KHÔNG BÀN THI PHÁP - Phạm Đức Nhì

THẮNG CẢNH HẢI VÂN QUA ĐƯỜNG THI NHÀ THƠ THẠCH CHÂU - Châu Thạch


    
              Nhà bình thơ Châu Thạch


        THẮNG CẢNH HẢI VÂN
        QUA ĐƯỜNG THI NHÀ THƠ THẠCH CHÂU

                                                             Châu Thạch


Đèo Hải Vân còn có tên Ải Vân, là một phần của dãy Trường Sơn cắt ngang dãy núi Bạch Mã chạy sát ra biển, nằm giữa ranh giới của tỉnh Thừa Thiên và thành
phố Đà Nẵng. Đây là một con đèo ngoạn mục, cảnh sắc thiên nhiên vừa nên thơ vừa hùng vĩ. Đường lên đèo khúc khuỷu, nước biển xanh bao quanh chân đèo, mây bay lưng chừng dưới mắt du khách. Qua Hải Vân còn gợi lại lòng ta đến lịch sử xa xưa của hai dân tộc Chiêm và Việt với chiến trận, với cuộc tình tay ba của nàng công chúa với tướng Việt, với vua Chiêm đã trở nên huyền sử.
Thơ đề vịnh về Hải Vân thì nhiều lắm. song đáng chú ý là bài thơ “Vãn Quá Hải Vân Quan” của Trần Quý Cáp mà cặp trạng “Sầu ngập mắt trông ngàn dặm biển/Giận tung quyền phá bốn trời mây” nói lên tấm lòng và chí khí của một người yêu nước.
Ngày nay, theo phong trào Đường thi, có hàng ngàn bài thơ viết về Hải Vân, trong đó có hai bài thơ của nhà thơ Thạch Châu đã mô tả đèo Hải Vân vừa cảnh vừa tình được xem như đầy đủ mà người viết muốn giới thiệu cùng bạn đọc.




                         Nhà thơ Thạch Châu


Trước hết ta hãy đi vào bài thơ tả cảnh:

THẮNG CẢNH HẢI VÂN.
Hùng quan lịch sử tạc lưng trời
Chất ngất non ngàn hướng biển khơi
Sóng quyện chân đèo tung nước biếc
Gió luồn vách núi vọng âm ngời
Ru hồn lữ khách bao xao xuyến
Níu dạ văn nhân chút thảnh thơi
Tiên cảnh bồng lai sương dỡn sóng
Hải Vân thắng cảnh để lưu đời…
                             Thạch Châu

Vì sao gọi Hải Vân là “Hùng quan lịch sử tạc lưng trời”?
Theo sử liệu, trước năm Bính Ngọ (1306) vùng đất có đèo Hải Vân thuộc châu Ô và châu Rí của vương quốc Cham Pa (còn gọi là Chiêm Thành). Sau đó vùng nầy được vua Champa cắt làm sính lễ cầu hôn công chúa Huyền Trân của nước Đại Việt ta. Từ đó ngọn đèo trở thành ranh giới giữa Đại Việt và Chiêm Thành. Ngày nay trên đỉnh đèo Hải vân còn có dấu vết một cửa ải. Cửa ải này được xây với tường dày kiên cố, cao 490 mét so với mực nước biển, bên dưới có vòm cổng lớn, bên trên là một tầng riêng có cửa sổ để quan sát, làm nhiệm vụ phòng thủ cho kinh thành xưa. Mặt chính của cổng hướng về tỉnh Thừa Thiên - Huế với tấm bảng khắc 3 chữ "Hải Vân Quan", còn mặt sau hướng về thành phố Đà Nẵng với 6 chữ "Thiên hạ đệ nhất hùng quan". Danh hiệu này tương truyền do vua Lê Thánh Tông phong tặng khi nhà vua dừng quân ở đây vào năm Canh Thìn (1470). Hùng là rạng rỡ, quan là cửa ải. Người xưa đã công nhận đây là một của ải đẹp nhất thiên hạ.
Tiếp theo vế mở, Thạch Châu vào vế trạng để tóm lược phong cảnh bằng hai bức tranh ước lệ: “Sóng gợn chân đèo tung nước biếc / Gió luồn vách núi vọng âm ngời”. Nếu du ngoạn đèo Hải Vân, xe sẽ đưa du khách chạy quanh các sườn núi mỗi lúc một lên cao. Du khách sẽ nhìn thấy một bên là núi chồng núi, một bên là biển nối biển. Ngồi trên cao, mắt nhìn từng làn sóng xanh biếc nối tiếp vổ vào vách chân đèo, tai nghe tiếng gió vi vu từ biển thì hai câu thơ của Thạch Châu đã gợi hình, gợi âm, miêu tả hầu như sinh động phong cảnh Hải Vân.
Câu luận của bài thơ phơi bày tâm trạng của khách khi qua đèo Hải Vân:


Ru hồn lữ khách bao xao xuyến
Níu dạ văn nhân chút thảnh thơi

Hai câu thơ nầy tuy phân biệt trạng thái khác nhau giữa lữ khách và văn nhân vì mục đích để làm chỉnh câu đối, nhưng thật ra nhà thơ muốn mô tả tâm trạng chung của mọi người khi qua đèo và cảm nhận của họ khi dừng chân ở lưng chừng đèo hay dừng chân tại đỉnh đèo để nhìn phong cảnh.
Người qua đèo dầu bất cứ ở thời tiết nào cũng không thể không xao xuyến khi nhìn cảnh hùng vĩ của núi rừng và cảnh nên thơ của biển quanh co dưới chân mình. Bên vách núi những con suối nước trong ào ào chảy xuống như từng giãi lụa vắt trên vai rừng xanh. Đối diện, dưới vực sâu, biển xanh dờn. sóng vổ ì âm tung bọt nước. Trời nắng, mặt trời chiếu lung linh muôn màu sắc. Trời xấu, sương mù giăng khắp núi rừng, ta đi lên hay xuống đều tưởng như con đường dẫn vào cõi thiên thai. Đặc biệt , Hải Vân được gọi là “Ải Mây” rất đúng. Mây bay là đà bên vách núi, mây hòa trong khói sóng, mây tựa vào nhau lớp lớp, mây xây thành và biến hóa giữa không trung. Vào những đêm trăng, chị hằng vành vạnh cho ta thấy đến tận làn da, lung linh trên đầu non hay giữa không gian bao la trên vùng biển xanh bát ngát.
Xe dừng lại bất kỳ một nơi nào đó, khách đưa mắt nhìn bao quát, lòng cảm nhận vô cùng thảnh thơi trước phong cảnh hữu tình. Nhất là tại đỉnh đèo, tại đây ta đứng nhìn thung lũng tít mờ xa, nhìn cung đường uốn lượn, nhìn Hải Vân Quan rêu phong và uống một ly cà phê hay trà đậm ở quán bên đường, lòng ta thấy thảnh thơi, nhẹ nhàng đến cả chiếc áo ta đang mặc cũng dường như không có.
Vế luận của bài thơ đọc tưởng bình thường như bao câu Đường thi khác, nhưng thật ra chữ “thảnh thơi” đi đôi với chữ “xao xuyến” đã có sự liên đới giữa “cảnh sinh tình” “tình đối cảnh” trong nghệ thuật miêu tả mà Thạch Châu đã học được cụ Nguyễn Du ngày xưa là vị thầy của bao thế hệ.
Qua vế kết của bài thơ “Tiên cảnh bồng lai sương dỡn sóng / Hải Văn thắng cảnh để lưu đời” ta để ý đên cụm từ “sương dỡn sóng”. Sương là hình ảnh của sự mong manh, sóng là hình ảnh của sự hùng vĩ. Nhà thơ cố ý để hai hình ảnh nầy thành đôi bạn, mục đích kết hợp vẽ đẹp tuyệt vời của phôi pha trong trường cửu, của không trong có, của sự vô vi giữa trời đất mông lung, làm cho trong trí ta càng thêm rõ nét một vùng tiên giới Hải Vân.
Trên là bài thơ tả thắng cảnh Hải Vân. Dưới đây là bài thơ tả dấu tích tình yêu còn lưu lại trên ngọn núi Hải vân:

DẤU TÌNH
Chất ngất non ngàn đỉnh Hải Vân
Hùng quan dấu tích lệ Huyền Trân
Lòng nghe xao xuyến trong tình bạn
Dạ bổng bồi hồi với nghĩa nhân
Nước Việt muôn trùng mang nỗi nhớ
Non Chiêm ngàn dặm gởi niềm thân
Ngày xưa dâu bể vì sao tỏ
Sương lạnh phòng khuê kiếp bạc phần.

                                         Thạch Châu


Đọc thơ ta biết ngay tác giả khóc cho mối tình bi lụy của công chúa Huyền Trân mà Hải Vân Quan coi như là dấu tích còn lưu lại cho đến ngày nay. Nhìn Hải Vân Quan không ai là không nhớ đến sự tích Huyền Trần công chúa. Huyền Trân công chúa là công chúa đời nhà Trần. Bà là con gái của vua Trần Nhân Tông, em gái của vua Trần Anh Tông. Năm 1306, Huyền Trân công chúa được gả cho Quốc vương Chiêm Thành là Chế Mân để đổi lấy hai châu Ô, Rí.. Bằng đường bộ, công chúa Huyền Trân sang Chiêm quốc, có Trần Khắc Chung đưa tiễn. Chắc chắn khi qua đỉnh đèo, Hải Vân Quan là nơi công chúa phải dừng lại để đoàn tùy tùng nghỉ ngơi, chuẩn bị cho hành trình xuống núi, cũng để nhìn phong cảnh ngoạn mục hai bên đèo.
Kinh đô Đồ Bàn hân hoan tiếp đón giai nhân lẫy lừng cõi Việt, long trọng tổ chức hôn lễ. Huyền Trân trở thành hoàng hậu. Éo le thay, tháng 5 năm Đinh Mùi 1307, vua Chế Mân đột tử. Theo tục lệ Chiêm Thành, chúa chết thì bà hậu của chúa phải vào giàn thiêu để chết theo. Vua Trần Anh Tông biết thế, sai Trần Khắc Chung, mượn cớ sang viếng tang rồi dùng mưu cướp lấy công chúa đem về, đi đường biển loanh quanh chậm chạp, lâu ngày mới về đến kinh đô. Bập bềnh trên sóng biển Đông phía ngoài đèo Hải Vân, vụt gặp mưa bão, hải đoàn Đại Việt tấp vào để tránh thiên tai. Như thế cả chuyến đi và chuyến về, gót chân nàng công chúa đều đặt lên đất Hải Vân.
Cũng theo hư truyền rằng trước khi sang làm dâu xứ Chiêm, Huyền Trân và Trần Khắc Chung đã có một mối tình sâu đậm, vì lợi ích quốc gia nên đành phải hy sinh mối tình đầy thơ mộng để đổi lấy hai châu Ô Mã và Ô Rí. Rồi khi Chế Mân mất, tình xưa của hai người được kết nối qua cuộc giải vây và hộ tống Huyền Trân về lại Đại Việt. Năm qua tháng lại, dòng đời tuôn mãi, câu chuyện ấy vẫn được các thế hệ truyền lưu. Đâu là sự thật thì chưa biết được nhưng mối tình của họ đã đi vào huyền sử, tồn tại giai thoại trong tâm hồn người Việt.
Bài Đường thi “Dấu Tình”của nhà thơ Thạch Châu cho ta quay lại ngàn năm trước với những thứ tình mà công chúa Huyền Trân mang trong lòng. Tình yêu, tình bạn, tình non sông mà công chúa đã có được và đã hy sinh như còn “chất ngất” di tích trên “non ngàn đỉnh Hải Vân”. Khi đứng trên đỉnh đèo, nơi hùng quan đệ nhất thiên hạ, chắc chắn lòng công chúa se thắt lại. Hải Vân Quan, nơi chứng kiến bao giọt lệ của nàng tuôn rơi còn sừng sửng đến ngày nay, trơ gan cùng tuế nguyệt. Bài thơ cũng đã tả lại tình cảm của nàng công chúa ly hương, mang nỗi nhớ muôn trùng của nước Việt, non Chiêm ngàn dặm. Đã thế kiếp dâu bể khiến nàng phải “sương lạnh phòng khuê” bạc phận một đời, ôm khối yêu, ôm nghĩa vợ chồng với nỗi cô đơn trống trải ở độ tuổi còn xuân.
Qua hai bài Đường thi đã đọc. nhà thơ Thạch Châu đã vẽ trọn cảnh Hải Vân và tình sử Hải Vân. Cảnh làm dấu tích cho tình tồn tại với thời gian và tình làm cho cảnh càng thêm ý nghĩa. Người viết đang ở thành Phố Đà Nẵng, không lạ gì với Hải Vận cũng không lạ gì với sự tích Huyền Trân công chúa. Tuy thế đọc thơ lòng vẫn cảm xúc, bởi hai bài thơ dựng lại cái bên ngoài và cái trong nội tâm, quay lại nối lòng của một thời xa xưa bằng tâm tình ta ngày nay, hảnh diện bới non sông cẩm tú, bởi văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể tồn tại giữa không gian và thời gian trên đất, trong lòng chúng ta và con cháu chúng ta, mãi mãi đến mai sau.

                                                                  Châu Thạch
Ghi chú: 
Vì tính chất của bài, người viết có lấy tài liệu lịch sử trên sách vở không đặt vào ngoặc kép để bài được sinh động. Xin bạn đọc thông cảm.

READ MORE - THẮNG CẢNH HẢI VÂN QUA ĐƯỜNG THI NHÀ THƠ THẠCH CHÂU - Châu Thạch