Nguyễn Khôi và Lê Mai
«HÀ NỘI QUÊ TÔI» - MỘT
TỨ THƠ LẠ, ĐỘC ĐÁO
« Tạo hóa gây chi cuộc hý trường » ?
Thơ về Thăng Long- Hà
Nội xưa nay có cả ngàn bài đáng đọc, nhưng sàng lọc ra qua vết thời gian,
Nguyễn Khôi tôi chỉ thích có ba bài ở ba thời điểm lịch sử khác nhau, nhưng đều
là người Hà Nội « xịn »:
Bà Huyện Thanh Quan quê ở làng Nghi Tàm (khoảng 1804- 1847), bà học rộng, được vua Minh Mạng triệu vào Huế làm cung trung giáo tập dạy học cho các cung phi, công chúa ; nhà thơ Nguyễn Đình Thi (1924- 2003) quê làng Vũ Thạch (nay là phố Bà Triệu) ; nhà thơ Lê Mai (Lê Văn Hùng) sinh năm 1953 tại Hà Nội, thương binh chống Mỹ hạng nặng, học đại học Sư Phạm, dạy trường PTTH Nguyễn Trãi, quận Ba Đình- Hà Nội. Xét về đẳng cấp, bà Huyện Thanh Quan thuộc tầng lớp quý tộc ; Nguyễn Đình Thi là quan chức văn nghệ, đứng thứ 2 (chỉ dưới ông Tố Hữu); Lê Mai là dân nghèo thứ thiệt ở Hà Thành hoa lệ như thơ anh viết « tôi là người lao động »- một cậu bé « trèo me trèo sấu » nhất quỷ nhì ma thời bao cấp và chiến tranh khốc liệt. Có lẽ cần nói rõ thêm về nhà thơ Lê Mai này, anh vào hội Nhà văn Hà Nội với tư cách nhà thơ, nhưng lại nổi danh với tiểu thuyết « Tẩu hỏa nhập ma »- 2003 về sự hư nát của ngành giáo dục và truyện ngắn « Quyền được rên »- 2008 về thân phận nhà văn Hoàng Công Khanh, nạn nhân trong vụ « Nhân văn giai phẩm »... Những tác phẩm có lẽ anh thai nghén từ khi dạy môn “Giáo dục công dân”. ...
Nói qua về ba tác giả để ta hiểu thêm vì sao tôi thích ba bài thơ viết về Hà Nội ở ba giai đoạn lịch sử khác nhau:
Bà Huyện Thanh Quan trong « Thăng Long thành hoài cổ » với 2 câu tuyệt bút :
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo/ Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Một tứ thơ lưu danh thiên cổ bởi đã nói lên nỗi đoạn trường (đứt ruột) trước cảnh hoang tàn của cố đô xứ Bắc. Ngôn ngữ thơ Hán- Nôm tuyệt xảo đan quyện hồn thơ hiu hắt, cô đơn trước đổi thay phũ phàng của thời cuộc. Một nỗi buồn hoài cổ đậm tính nhân văn, nuối tiếc thời vàng son của Đại Việt (nhà Lê) cũng là sự trở về cội nguồn của dân tộc...
« Người Hà Nội » hào hoa Nguyễn Đình Thi trong bài thơ « Đất nước » (viết từ 1948- 1955) với 7 câu mở đầu mang hồn thơ phơi phới đầy hứng khởi trước sự chuyển mình của dân tộc, đất nước với một niềm tin tất thắng như tan vào từng câu từng chữ :
/ Sáng mắt trong như sáng năm xưa/ Gió thổi mùa thu hương cốm mới/ Tôi nhớ những ngày thu đã xa/ Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội/ Những phố dài xao xác hơi may/ Người ra đi đầu không ngoảnh lại/ Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.../
3 câu đầu- một khúc hoài niệm... rồi cái hồn thơ, cái tứ lạ kết vào mấy chữ « đầu không ngoảnh lại... lá rơi đầy » thì bút lực ở đây quả là « thần cú » xuất thần, rất thơ là bịn rịn vấn vương như hồn người Hà Nội và chỉ người Hà Nội gốc mới cảm và viết ra như vậy giữa những ngày tiêu thổ kháng chiến...
Đến Lê Mai với « Hà Nội quê tôi » mở đầu anh đã khẳng định « Tôi là người lao động, thế thôi »- Anh có mẹ già nơi phố phường chật hẹp bon chen. Anh có người cha không quản phận nghèo vẫn nuôi con học hành không thua bè kém bạn... Tự bạch cũng chỉ là bình thường, nhưng đặc tả cái « quê xưa » của vua Lý Thái Tổ nơi địa thế rồng chầu hổ phục thì Lê Mai đặc tả rất khác thường:Đất quê tôi không lũ cao nắng hạnChỉ chân trời trên nóc bếp cheo leoĐó là thời của gác xép/chuồng cọp- nay là chung cư cao tầng của dân tái định cư... gắn với tuổi học trò nghèo trèo me trèo sấu và lớn lên với « Sông Hồng xoáy trong tôi dòng nước mát ».Từ cái điểm tựa lấm lem nghèo khổ đó mà sao với Lê mai « Gió quê tôi đêm ngày vi vu nhắc » : / Giếng Ngọc là của tôi / Văn Miếu là của tôi/ Chùa Diên Hựu là của tôi/ Tháp Bút- đài Nghiên là của tôi/ Hồ Tây là của tôi/ Hồ Gươm là của tôi : Đó là là lẵng hoa thơm như môi con gái... đẹp đến thế sao mang tên Hoàn Kiếm ?/ Đài liệt sĩ vô danh là của tôi/ Và em là của tôi : Sự sống thiêng liêng kết bằng máu thịt người, cho tôi hiểu lẽ đời giản dị !/
Báu vật của đời được phép ví với em... Của tôi, của tôi... còn bao nhiêu tinh hoa, di sản văn hóa ở đất Hà Nội ngàn năm văn hiến tác giả chưa thể kể hết trong thơ, tất tật phải là « của tôi ». Ta chợt hiểu ra thâm ý nhà thơ lúc đầu tự bạch mình là người lao động bình thường, nghèo túng thật không đơn giản, bởi qua thơ anh đã hóa thân thành Nhân Dân, thành Dân Tộc cần lao. Chỉ có Nhân Dân mới là chủ nhân đích thực của mọi giá trị tốt đẹp nhất kết tinh vào văn hiến ngàn năm Thăng Long- Đông Đô- Hà Nội. Và vì thế cái kết cũng giản dị như cuộc đời thi sĩ: /Tôi là người lao động/ Thế thôi/ Nhưng quê tôi, Hà Nội !/ Mạch thơ ào ạt tuôn chảy đến đây kết là khá cộc lốc, hụt hẫng- chưa thể thôi được ? Theo mạch thơ ấy kẻ bình thơ nhân danh những người đọc Hà Nội còn có thể cùng nhà thơ ngẫm suy và tự nhủ : Chiếu rời đô là của tôi, Hịch tướng sĩ là của tôi, Bình Ngô đại cáo là của tôi, Điện Biên Phủ trên không là của tôi... rồi phở Hà Nội là của tôi, bia hơi Hà Nội là của tôi, cafe vỉa hè là của tôi, bánh cuốn Thanh Trì là của tôi, gốm sứ Bát Tràng là của tôi, của tôi... Sao bây giờ chủ nhân đích thực thì khốn khổ khốn nạn còn lũ đầy tớ thì giầu sụ, phè phỡn, xa hoa thế ? Nhà thơ của Nhân Dân là vậy.
Viết đến đây NK lại nhớ tới bài thơ Liberte’ (Tự Do) của thi hào siêu thực Pháp Paul Eluard (1895- 1952) mà Lê Mai trình diễn thơ « Hà Nội quê tôi » có cái kết cấu, bố cục khá đồng điệu: /Trên quyển vở nhà trường/ Trên án viết thân cây/ Trên cát, trên tuyết/ Ta viết tên em/ Trên sức khỏe phục hồi/ Trên hiểm nguy tan biến/ Trên hy vọng chẳng nhớ nhung/ Ta viết tên em/ Và do phép màu một tiếng/ Ta làm lại cuộc đời/ Ta sinh ra để biết em/ Để gọi tên em (2 chữ)TỰ DO/.
Dẫu biết mọi sự liên tưởng, so sánh đều khập khiễng, nhưng ở góc độ người bình thơ NK tôi không thể không giật mình cầm bút thả chữ. Xưa nay người làm thơ rất mừng gặp được người thơ mới/cái tứ lạ, với cấu trúc độc đáo như bài « Hà Nội quê tôi » ngôn ngữ tinh luyện, câu chữ như nén chặt để rồi thoát xác thành hồn thơ cất cánh « Tấm gương trong mây hất tóc rối trời cho tôi hiểu vì đâu tình yêu người Hà Nội vời vợi mênh mang »... Thơ Lê Mai đẹp và lạ thế đó !...
Bà Huyện Thanh Quan quê ở làng Nghi Tàm (khoảng 1804- 1847), bà học rộng, được vua Minh Mạng triệu vào Huế làm cung trung giáo tập dạy học cho các cung phi, công chúa ; nhà thơ Nguyễn Đình Thi (1924- 2003) quê làng Vũ Thạch (nay là phố Bà Triệu) ; nhà thơ Lê Mai (Lê Văn Hùng) sinh năm 1953 tại Hà Nội, thương binh chống Mỹ hạng nặng, học đại học Sư Phạm, dạy trường PTTH Nguyễn Trãi, quận Ba Đình- Hà Nội. Xét về đẳng cấp, bà Huyện Thanh Quan thuộc tầng lớp quý tộc ; Nguyễn Đình Thi là quan chức văn nghệ, đứng thứ 2 (chỉ dưới ông Tố Hữu); Lê Mai là dân nghèo thứ thiệt ở Hà Thành hoa lệ như thơ anh viết « tôi là người lao động »- một cậu bé « trèo me trèo sấu » nhất quỷ nhì ma thời bao cấp và chiến tranh khốc liệt. Có lẽ cần nói rõ thêm về nhà thơ Lê Mai này, anh vào hội Nhà văn Hà Nội với tư cách nhà thơ, nhưng lại nổi danh với tiểu thuyết « Tẩu hỏa nhập ma »- 2003 về sự hư nát của ngành giáo dục và truyện ngắn « Quyền được rên »- 2008 về thân phận nhà văn Hoàng Công Khanh, nạn nhân trong vụ « Nhân văn giai phẩm »... Những tác phẩm có lẽ anh thai nghén từ khi dạy môn “Giáo dục công dân”. ...
Nói qua về ba tác giả để ta hiểu thêm vì sao tôi thích ba bài thơ viết về Hà Nội ở ba giai đoạn lịch sử khác nhau:
Bà Huyện Thanh Quan trong « Thăng Long thành hoài cổ » với 2 câu tuyệt bút :
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo/ Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Một tứ thơ lưu danh thiên cổ bởi đã nói lên nỗi đoạn trường (đứt ruột) trước cảnh hoang tàn của cố đô xứ Bắc. Ngôn ngữ thơ Hán- Nôm tuyệt xảo đan quyện hồn thơ hiu hắt, cô đơn trước đổi thay phũ phàng của thời cuộc. Một nỗi buồn hoài cổ đậm tính nhân văn, nuối tiếc thời vàng son của Đại Việt (nhà Lê) cũng là sự trở về cội nguồn của dân tộc...
« Người Hà Nội » hào hoa Nguyễn Đình Thi trong bài thơ « Đất nước » (viết từ 1948- 1955) với 7 câu mở đầu mang hồn thơ phơi phới đầy hứng khởi trước sự chuyển mình của dân tộc, đất nước với một niềm tin tất thắng như tan vào từng câu từng chữ :
/ Sáng mắt trong như sáng năm xưa/ Gió thổi mùa thu hương cốm mới/ Tôi nhớ những ngày thu đã xa/ Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội/ Những phố dài xao xác hơi may/ Người ra đi đầu không ngoảnh lại/ Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.../
3 câu đầu- một khúc hoài niệm... rồi cái hồn thơ, cái tứ lạ kết vào mấy chữ « đầu không ngoảnh lại... lá rơi đầy » thì bút lực ở đây quả là « thần cú » xuất thần, rất thơ là bịn rịn vấn vương như hồn người Hà Nội và chỉ người Hà Nội gốc mới cảm và viết ra như vậy giữa những ngày tiêu thổ kháng chiến...
Đến Lê Mai với « Hà Nội quê tôi » mở đầu anh đã khẳng định « Tôi là người lao động, thế thôi »- Anh có mẹ già nơi phố phường chật hẹp bon chen. Anh có người cha không quản phận nghèo vẫn nuôi con học hành không thua bè kém bạn... Tự bạch cũng chỉ là bình thường, nhưng đặc tả cái « quê xưa » của vua Lý Thái Tổ nơi địa thế rồng chầu hổ phục thì Lê Mai đặc tả rất khác thường:Đất quê tôi không lũ cao nắng hạnChỉ chân trời trên nóc bếp cheo leoĐó là thời của gác xép/chuồng cọp- nay là chung cư cao tầng của dân tái định cư... gắn với tuổi học trò nghèo trèo me trèo sấu và lớn lên với « Sông Hồng xoáy trong tôi dòng nước mát ».Từ cái điểm tựa lấm lem nghèo khổ đó mà sao với Lê mai « Gió quê tôi đêm ngày vi vu nhắc » : / Giếng Ngọc là của tôi / Văn Miếu là của tôi/ Chùa Diên Hựu là của tôi/ Tháp Bút- đài Nghiên là của tôi/ Hồ Tây là của tôi/ Hồ Gươm là của tôi : Đó là là lẵng hoa thơm như môi con gái... đẹp đến thế sao mang tên Hoàn Kiếm ?/ Đài liệt sĩ vô danh là của tôi/ Và em là của tôi : Sự sống thiêng liêng kết bằng máu thịt người, cho tôi hiểu lẽ đời giản dị !/
Báu vật của đời được phép ví với em... Của tôi, của tôi... còn bao nhiêu tinh hoa, di sản văn hóa ở đất Hà Nội ngàn năm văn hiến tác giả chưa thể kể hết trong thơ, tất tật phải là « của tôi ». Ta chợt hiểu ra thâm ý nhà thơ lúc đầu tự bạch mình là người lao động bình thường, nghèo túng thật không đơn giản, bởi qua thơ anh đã hóa thân thành Nhân Dân, thành Dân Tộc cần lao. Chỉ có Nhân Dân mới là chủ nhân đích thực của mọi giá trị tốt đẹp nhất kết tinh vào văn hiến ngàn năm Thăng Long- Đông Đô- Hà Nội. Và vì thế cái kết cũng giản dị như cuộc đời thi sĩ: /Tôi là người lao động/ Thế thôi/ Nhưng quê tôi, Hà Nội !/ Mạch thơ ào ạt tuôn chảy đến đây kết là khá cộc lốc, hụt hẫng- chưa thể thôi được ? Theo mạch thơ ấy kẻ bình thơ nhân danh những người đọc Hà Nội còn có thể cùng nhà thơ ngẫm suy và tự nhủ : Chiếu rời đô là của tôi, Hịch tướng sĩ là của tôi, Bình Ngô đại cáo là của tôi, Điện Biên Phủ trên không là của tôi... rồi phở Hà Nội là của tôi, bia hơi Hà Nội là của tôi, cafe vỉa hè là của tôi, bánh cuốn Thanh Trì là của tôi, gốm sứ Bát Tràng là của tôi, của tôi... Sao bây giờ chủ nhân đích thực thì khốn khổ khốn nạn còn lũ đầy tớ thì giầu sụ, phè phỡn, xa hoa thế ? Nhà thơ của Nhân Dân là vậy.
Viết đến đây NK lại nhớ tới bài thơ Liberte’ (Tự Do) của thi hào siêu thực Pháp Paul Eluard (1895- 1952) mà Lê Mai trình diễn thơ « Hà Nội quê tôi » có cái kết cấu, bố cục khá đồng điệu: /Trên quyển vở nhà trường/ Trên án viết thân cây/ Trên cát, trên tuyết/ Ta viết tên em/ Trên sức khỏe phục hồi/ Trên hiểm nguy tan biến/ Trên hy vọng chẳng nhớ nhung/ Ta viết tên em/ Và do phép màu một tiếng/ Ta làm lại cuộc đời/ Ta sinh ra để biết em/ Để gọi tên em (2 chữ)TỰ DO/.
Dẫu biết mọi sự liên tưởng, so sánh đều khập khiễng, nhưng ở góc độ người bình thơ NK tôi không thể không giật mình cầm bút thả chữ. Xưa nay người làm thơ rất mừng gặp được người thơ mới/cái tứ lạ, với cấu trúc độc đáo như bài « Hà Nội quê tôi » ngôn ngữ tinh luyện, câu chữ như nén chặt để rồi thoát xác thành hồn thơ cất cánh « Tấm gương trong mây hất tóc rối trời cho tôi hiểu vì đâu tình yêu người Hà Nội vời vợi mênh mang »... Thơ Lê Mai đẹp và lạ thế đó !...
Nguyễn Khôi
Phố Hàn, 27/9/2016
Phố Hàn, 27/9/2016
Nhà thơ Nguyễn Khôi
HÀ NỘI QUÊ TÔI
Tôi
là người lao động, thế thôi!
Nhưng
quê tôi:
Hà
Nội!
Nơi
tôi có mẹ già, mảnh đông quê ngát hương đồng nội, thơm phố phường chật chội bon
chen
Nơi
tôi có người cha không quản phận nghèo hèn, gắng nuôi con không thua bè kém
bạn.
Đất
quê tôi không lũ cao nắng hạn
Chỉ
chân trời trên nóc bếp cheo leo
Tuổi
thơ tôi những năm tháng leo trèo
Bắt
bọ ngựa,
dính
ve,
trèo
me,
ném
sấu.
Lời
rủ rê của lũ ve yêu dấu
Gọi
hè về thúc nở những mùa chơi.
Cơm
nguội vàng háo hức giục bàng rơi
Sông
Hồng xoáy trong tôi dòng nước mát
Gió
quê tôi đêm ngày vi vút nhắc:
Giếng
Ngọc là của tôi
Giọt
nước mắt tổ tông ngàn năm còn nhức nhối trong đời
Cho
tôi hiểu vì sao người Hà Nội, huyền thoại rồi còn rời rợi yêu thương.
Văn Miếu là của tôi
Pho sách thơm cha ông tạc để đời, cho tôi hiểu
vì sao người Hà Nội đốt trầm trong lúc đọc thơ.
Chùa Diên Hựu là của tôi!
Đóa sen tâm bừng nở ngát cõi người cho tôi hiểu
vì sao người Hà Nội cấp gạo thuyền giặc chết khỏi tha hương.
Tháp Bút – Đài Nghiên là của tôi
Tả Thanh Thiên xao xuyến cả cõi trời, cho tôi
hiểu vì sao người Hà Nội nâng cốm Vòng trong những lá sen tươi.
Hồ Tây là của tôi!
Tấm gương trong mây hất tóc dỗi trời, cho tôi
hiểu tình yêu người Hà Nội vì đâu mà vợi vợi mênh mang.
Hồ Gươm là của tôi !
Lẵng hoa tươi thiên nhiên kết dâng người, thơm
như môi con gái, mềm mại như tuổi dậy thì,liễu bên hồ chớp chớp làn mi, đẹp đến
thế sao mang tên Hoàn Kiếm ? Lẵng hoa đời nền văn hiến trổ bông.
Đài liệt sĩ vô danh là của tôi !
Sắc xám xanh lánh lạnh ánh sao trời, cho tôi
hiểu vì đâu trăng Hà Nội suốt bốn mùa rười rượi thanh thanh.
Nén nhang thắp trong mỗi gia đình là của tôi !
Nén nhang tươi nhức nhối nhỏ kiếp người , cho
tôi hiểu vì sao sông Cái đỏ, những nụ đào hé tỏ ánh phù sa.
Và em là của tôi !
Sự sống thiêng liêng kết bằng máu thịt người,
cho tôi hiểu mình lẽ đời giản dị ! Báu vật của đời được phép ví với em !
Tôi là người lao động,
thế thôi !
Nhưng quê tôi, Hà Nội!
Lê Mai