(Từ kho báu kinh nghiệm, tri thức của tôn
giáo cổ đại và khoa học tự nhiên đương đại)
Thở vào, cảm nhận hơi vào
Thở ra, cảm nhận hơi ra
Chú tâm lắng nghe hơi thở
Vọng tâm vọng tưởng dần xa
*
Toạ thiền hoặc không toạ thiền
Miễn sao ngồi thật an nhiên
Thở đều, hơi dài và nhẹ
Vơi bao nghiệp chướng ưu phiền
*
An định: dễ thấy cái “tôi”
Cái khuôn tâm não tháo lơi
Tự tri là gốc minh triết
Tỉnh thức vô ngã chiếu soi
*
Thở vào, cảm nhận hơi vào
Thở ra, cảm nhận hơi ra
Chú tâm lắng nghe hơi thở
Trí tuệ tâm linh thăng hoa
*
Y học có nhiều chứng minh
Công năng của hơi-thở-thiền
Nhân điện điều hoà cơ thể
Năng lượng vũ trụ diệu huyền
*
Vật lí có nhiều chứng minh
Tâm năng của hơi-thở-thiền
Lan toả duyên lành vô tận
Thiện ích khắp nẻo chúng sinh
*
Thở vào, lắng nghe hơi vào
Thở ra, lắng nghe hơi ra
Dần dần biết nghe vọng tưởng
Chân Tâm cực lạc khai hoa…
Mong bạn đọc chia sẻ với người khác).
***
“Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là đạo lí của vũ trụ, là mẫu số chung của ý nghĩa cuộc sống, là Thiền; mang năng lượng tích cực có lợi cho toàn vũ trụ, cho sự thăng hoa trí tuệ-tâm linh chung của tất cả. (Đường Về Minh Triết; Tuệ Thiền (Lê Bá Bôn); Docx.vn).* Khi nghiên cứu vấn đề này tôi chưa biết là cơ sở chữa bệnh của các phương pháp Đông y cổ đại (bằng “nội năng”) là giải phóng cơ thể khỏi tâm năng tiêu cực. Lúc đó tôi đâu đã phỏng đoán được rằng tình yêu thương và cảm thông-vẫn được tuyên truyền ở phương Đông- là thuốc giải độc, không chỉ với các tính cách hung dữ và hèn nhát, mà còn phòng ngừa được bệnh tật. (Chúng Ta Thoát Thai Từ Đâu; E-rơ-nơ Mun-đa-sep, giáo sư tiến sĩ y học (Nga), nhà bác học có tên tuổi quốc tế).
01/3/2012
Tuệ Thiền (Lê Bá Bôn)
MỘT SỐ
TRANG SÁCH QUÝ GIÁ
CỦA NHÀ KHOA HỌC NÓI VỀ TÂM LINH
(Bổ sung cho bài Hơi Thở Minh Triết)
*Người đọc: Tuệ Thiền Lê
Bá Bôn
A.- BÀI “HƠI THỞ
MINH TRIẾT”:
(Đã đăng ở trên)
B.- ĐỌC SÁCH:
*(Những
chỗ làm đậm chữ hoặc chữ nghiêng là do người đọc
nhấn
mạnh
hoặc thêm cho rõ nghĩa).
1)
Đọc trong Chúng Ta Thoát Thai Từ Đâu
(E-rơ-nơ Mun-đa-sep; giáo sư tiến sĩ y học (Nga), nhà
bác học lớn quốc tế. Dịch giả: Hoàng Giang; NXB Thế
Giới, 2009):
* Người cổ xưa
cho rằng, vật chất sinh ra từ khoảng không. Nhà
vật lí thiên tài Nga Ghên-na-đi Si-pốp, người đã lập
được phương trình (A. Anh-xtanh đã không lập được) mô
tả vật lí chân không, tức Tịnh vô tuyệt đối hoặc
Tuyệt đối, cũng cho như vậy. Cùng quan niệm này có cả
thành viên đoàn thám hiểm chúng tôi, chuyên gia vật lí
trường, phó tiến sĩ khoa học kĩ thuật Va-lê-ri
Lô-ban-cốp.
Tôi và Va-lê-ri
Lô-ban-cốp thảo luận nhiều về đề tài này. Dưới đây
tôi xin trình bày kết quả của những cuộc thảo luận
đó.
Tuyệt đối đó
không đơn thuần là tịnh vô; đó là Khoảng Không có Cái
gì đó. Trước mắt, khoa học chưa biết Cái gì đó.
Theo G. Si-pốp, nguyên tử và phản nguyên tử phát sinh từ
Tuyệt đối. Chúng sinh ra, đụng độ nhau và huỷ diệt
nhau. Nhưng có một lần, cách đây nhiều tỉ năm, vào một
thời điểm các nguyên tử và phản nguyên tử sau khi tạo
thành trong không gian, đã tản đi. Vật chất phát sinh từ
Tuyệt đối là như vậy.
Các trường xoắn
và phản xoắn (xoắn theo cách khác) siêu tần số cùng
phát sinh từ Tuyệt đối, chúng cùng huỷ diệt lẫn nhau
và hỗ trợ Tuyệt đối. Nhưng cũng có thể xuất hiện
thời điểm, khi các trường xoắn huỷ diệt nhau tản đi.
Thế giới tế vi phát sinh từ Tuyệt đối là như vậy.
Theo giả thuyết
của G. Sipốp: giữa các trường xoắn của thế giới
tế vi và ý thức có mối liên hệ trực tiếp, bởi các
trường xoắn là những chất chứa đu-sa và đu-khơ.
Từ đó suy ra từ
Tuyệt đối đã phát sinh hai thế giới - thế giới vật
thể và thế giới tế vi.
Thế giới vật thể
phức tạp dần. Xuất hiện sao, hành tinh, các hệ ngân hà
v.v…
Thế giới tế vi
bao gồm các trường xoắn khác nhau cũng phức tạp dần.
Khó nói thế giới tế vi phức tạp và hoàn thiện dần
bằng cách nào. Nhưng có thể nghĩ các trường xoắn của
không gian-thời gian ngày một tích lượng thông tin nhiều
hơn, tức có khả năng chứa đựng trong mình ngày một
nhiều thông tin hơn. Có thể, đã xuất hiện những trường
xoắn nhiều tầng, nhiều lớp hơn (nếu suy nghĩ trên quan
điểm hình học), có thể quá trình phức tạp hoá các
trường xoắn có tính chất khác nhau. Dần dà trong quá
trình tiến hoá trong thế giới tế vi xuất hiện đu-khơ
- khối năng lượng tâm thần kết đông dưới dạng các
trường xoắn có thể bảo toàn vĩnh cửu trong mình
một khối lượng thông tin to lớn. Nhiều đu-khơ tạo
thành giữa chúng những mối liên hệ thông tin và tạo ra
Không gian thông tin toàn thể, tức Cõi kia (…).
(…) Cùng với sự
tạo ra con người bằng nỗ lực của thế giới tế vi
(Cõi kia), các dạng sự sống đơn giản hơn cũng được
tạo nên ở thế giới vật thể - con vật, côn trùng, cây
cỏ v.v… Nguyên lí tạo thế giới thực vật và thế
giới động vật vẫn như vậy - bằng cách cô đặc dần
các dạng trường xoắn đơn giản hơn của Cõi kia.
Liệu con người
trong thế giới vật thể có thể sống thiếu Cõi kia
không? Sau khi tạo bộ gen và nhờ đó tiến hành quá trình
tái tạo con người (sinh đẻ đứa trẻ) trên Trái đất,
đu-khơ giữ lại cho mình chức năng tư duy chủ yếu.
Trong quan niệm tôn giáo, sau khi đứa bé chào đời đu-khơ
nhập vào đứa trẻ và ấn định những năng lực tư duy
chủ yếu của con người. Nghĩa là, chúng ta suy nghĩ
chủ yếu nhờ vào đu-khơ sống ở thế giới tế vi.
Nhờ năng lượng thế giới vật thể (ăn uống) não người
có khả năng vặn các trường xoắn của thế giới tế
vi và như vậy hỗ trợ đu-khơ trong quá trình tư duy.
Ngoài ra, não còn tạo các trường xoắn phụ hình thành
đu-sa (sinh trường) ở dạng các thể thanh bai và các thể
khác hỗ trợ cơ thể người hoạt động. Sau khi xác
thân chết, nhiều bộ phận tạo thành đu-sa (các thể
thanh bai) cũng bị phá huỷ, còn lại đu-khơ thì bay
về Cõi kia và tiếp tục sống ở thế giới tế vi để
rồi lúc nào đó lại bước vào kiếp mới. Vậy là
con người, sau khi được tạo ra trong thế giới vật thể
nhờ các “nỗ lực” của thế giới tế vi, là sự kết
hợp các hình thái sự sống ở thế giới vật thể và
thế giới tế vi.
Mọi ngưòi đều
biết rõ khái niệm karma (nghiệp), tức là
các “vết tích” của các tiền kiếp để lại trong
đu-khơ. Giai đoạn trần thế ở thế giới vật thể,
đu-khơ có thể hoàn thiện mà cũng có thể thoái hoá. (…)
Chính con người khác biệt với con vật ở chỗ: bộ máy
tư duy của con người có nhiệm vụ hoàn thiện đu-khơ
(đưa vào đó nhiều thông tin xây dựng) và bằng cách đó,
hoàn thiện hình thái sự sống ở thế giới tế vi. Nói
cách khác, là đứa con thể xác của sự sống nơi thế
giới tế vi, con người có sứ mệnh thông qua thế giới
vật thể thúc đẩy sự tiến bộ nơi thế giới tế vi.
Con người được tạo ra cũng là bởi lẽ đó.
Rõ ràng là, về
tầm mức, hình thái sự sống nơi thế giới tế vi (Cõi
kia) cao hơn đáng kể so với sự sống ở thế giới vật
thể. Đu-khơ bất tử là một xác nhận. Nếu thể xác có
thể sống không phải 70-80 năm mà là 1000-2000 năm và lâu
hơn thế, thì khả năng hoàn thiện đu-khơ thông qua thế
giới vật thể nhiều hơn, bởi quá trình rời bỏ thân
xác này và nhập vào thân thể khác gắn với thời kì tư
duy ít năng động kéo dài (tuổi ấu thơ và già nua). (…).
Có cách nào để
tăng tưổi thọ? Câu trả lời có vẻ như kì quặc - bằng
cách tôn vinh điều thiện, bác ái và tri thức.
(…) Sự sống và
cái chết thay đổi luôn là để nhanh chóng thay con người
độc ác, ích kỉ và hám danh bằng một người khác với
hi vọng, sau khi con người ở Cõi kia bị thần linh “trừng
phạt” sẽ đầu thai tái sinh trở thành người tốt hơn,
thiện hơn. Vì vậy có lẽ huyền thoại về địa ngục
và thiên đường có cơ sở.
--------
* Khi nghiên cứu
vấn đề này tôi chưa biết là cơ sở chữa bệnh của
các phương pháp đông y cổ đại (bằng “nội năng”)
là giải phóng cơ thể khỏi tâm năng tiêu cực. Lúc
đó tôi đâu đã phỏng đoán được rằng tình yêu thương
và cảm thông, vẫn được tuyên truyền ở phương Đông,
là thuốc giải độc không chỉ đối với các tính chất
hung dữ và hèn nhát, mà còn phòng ngừa được bệnh tật.
Và tất nhiên khi đó, ngay trong giấc mơ huyền thoại tôi
cũng chẳng hình dung được việc giải thoát cơ thể khỏi
tâm năng xấu còn có thể dẫn đến kì quan đại định
– thân thể khô cứng mà vẫn bảo toàn được sự sống
hằng nghìn và hằng triệu năm (trạng thái xô-ma-chi).
(…) Không còn
hoài nghi gì nữa về ảnh hưởng to lớn của năng lượng
tâm thần tới cơ thể con người; mà có được trạng
thái xô-ma-chi chính là nhờ tham thiền đấy thôi.
(…) Thoạt nghe
những từ ngữ “tình cảm trong sáng”, “tâm hồn trong
sạch” như những khái niệm mờ mờ ảo ảo. Song chúng
ta cùng nhớ lại, để nhập định sâu cần phải
“thanh lọc tâm hồn”, tức phải giải phóng khỏi những
trường xoắn tiêu cực. Hiệu quả của sự thanh lọc
tâm hồn cực kì lớn lao – thân thể con người có khả
năng bảo toàn hàng nghìn và hàng triệu năm ở dạng
sống.
(…) Cụ thể là,
nhờ tham thiền, sinh trường của tu sĩ ở trạng thái
áp đảo quá trình tái sinh bệnh hoạn (ung thư), ổn định
chức năng của các tế bào bệnh và kích thích các tế
bào bình thường của cơ thể tái sinh. Nói một cách
khác, bí quyết trường thọ ở các môn đồ không phải
vì chu kì sống của các tế bào gia tăng, mà là sự thay
thế các tế bào già nua bằng các tế bào mới và phòng
ngừa suy biến thành ung thư.
(…) Trên bước
đường khoa học của mình, tôi luôn luôn đi theo cách thứ
hai, nghĩa là từ cái chung đến cái riêng. Vì đã nhằm
mục đích là giải quyết những vấn đề y học cụ thể,
trước tiên là bệnh ung thư, muốn hay không chúng tôi
cũng phải nghiên cứu năng lượng tâm thần và những vấn
đề liên can là nguồn gốc loài người và vũ trụ.
--------
* Thế giới vi
tế tức thế giới năng lượng tâm thần (thế giới tần
số siêu cao) phải có sự chuyển đổi qua lại, và có
mối quan hệ tương hỗ với thế giới vật thể theo kiểu
năng lượng sóng chuyển sang dạng vật chất và ngược
lại. Nói một cách khác, phải có vật chất hoá ý
nghĩ và phi vật chất hoá vật thể thành ý nghĩ. Các
nhà vật lí thường nhấn mạnh ý nghĩ có tính vật chất,
và hình như điều đó đúng.
(…) Nền khoa
học hiện đại đã đạt tới tầm mức nhận thức được
tôn giáo và hiểu rằng, học thuyết con người phát
sinh từ con khỉ của Đác-uyn quá thô thiển, còn tôn giáo
chẳng là cái gì khác ngoài một cách trình bày phóng dụ
tri thức của các nền văn minh cổ đại.
(…) Tôi tuyệt
đối tin rằng sự sống vật thể trên trái đất đã
được tạo ra bằng cách hồn cô đặc dần. Mọi học
lí cho rằng, sự sống trên trái đất xuất hiện do những
phân tử phức tạp tự phát sinh và cô đọng thành những
cơ thể sống, không vững vàng, xét cả trên quan niệm
tôn giáo lẫn quan điểm vật lí học và hoá học hiện
đại.
(…) Trước mắt,
nền văn minh của chúng ta còn chưa biết sử dụng năng
lượng vũ trụ. Mà năng lượng đó lại rất to lớn. Một
số nhà vật lí học hiện đại cho rằng, một mét khối
Tuyệt đối có tiềm lực năng lượng bằng công suất
40.000 tỉ quả bom hạt nhân.(…) Mà chỉ có con người
mới nắm được năng lượng này, bởi con người chính
là tiểu vũ trụ của đại vũ trụ.
Để nắm được
năng lượng vũ trụ, người Lê-mu-ri đã sử dụng các
phương pháp vốn có ở Cõi kia. Cơ sở của các phương
pháp đó (thời nay nghe thật lạ tai) là các khái niệm
giản đơn: “thiện” và “yêu thương”.
(…) Vì vậy, để
có một tâm hồn trong sạch, như lời các đạo sư, chỉ
có thể tu thân - một công việc lớn lao, tự
thể hiện mình và thậm chí hi sinh, nhưng… nhất thiết
phải để đạt mục tiêu chung nào đó của nhân loại,
chứ không đơn giản chỉ để tự khẳng định mình.
(…) Vì vậy,
trong cuộc sống cần lắng nghe lương tâm của mình.
Cái cảm giác sâu lắng đó luôn luôn nói sự thật, còn
nếu đã có lần xử sự trái với lương tâm, thì vét
nhơ còn mãi trong tâm hồn.
(…) (Thầy
Đa-ram nói: ) Năng lượng linh hồn là năng lượng ở
ngoài electron và ngoài proton. Nhưng tâm năng mạnh mẽ vô
cùng, nó có khả năng tác động lên lực hấp dẫn. Năng
lượng của nhiều tâm có một sức mạnh lớn lao. Có tâm
năng tích cực và tâm năng tiêu cực, chúng gắn liền với
nhau.(…) Tâm năng tiêu cực (xấu ác) có thể thu hút
các đối tượng phá phách của vũ trụ, tác động lên
thiên nhiên. Bởi vậy, cùng với xung đột và chiến
tranh, khá thường xuyên xảy ra động đất, rơi thiên
thạch…
(…) Chúng ta cần
nhớ rằng, lòng thiện và tri thức sẽ thúc đẩy quá
trình hiện thực hoá dự báo tích cực về sự phát
triển của loài người; còn cái ác và thói hám quyền có
thể dẫn đến thảm hoạ toàn cầu trong tương lai, kể
cả ngày tận thế, hoặc tạo điều kiện phát triển yếu
tố thụt lùi, dẫn đến hoá hoang.
(…) Tôi tin rằng,
trong tương lai, những lực lượng tích cực trên Trái đất
sẽ áp đảo lực lượng tiêu cực và sẽ không có thảm
hoạ toàn cầu.
***************
2)
Đọc trong Đạo Của Vật Lí (Fritjof
Capra; giáo sư vật lí ở các đại học danh tiếng Anh,
Mĩ. Dịch giả: Nguyễn Tường Bách; NXB Trẻ, 1999):
* Hồi tôi khám phá
ra những điều song hành giữa thế giới quan vật lí và
đạo học, những điều đã được nhiều người mơ hồ
cảm thấy nhưng chưa bao giờ được nghiên cứu cặn kẽ,
tôi đã thấy rõ mình chỉ là người phát hiện một điều
vốn đã rất rõ ràng, và điều đó sẽ thành kiến
thức chung trong tương lai; và thỉnh thoảng, khi viết
Đạo Của Vật Lí, thậm chí tôi có cảm giác những
gì được viết là thông qua tôi, chứ không phải do tôi
viết ra. Những biến cố sau này đã khẳng định cảm
nhận này.
(…) May mắn thay
thái độ đó đang được thay đổi. Vì tư tưởng phương
Đông đang bắt đầu tạo được mối quan tâm nơi một
số lớn người và thiền định không còn bị nhìn với
sự nghi ngờ, đạo học đã được coi trọng, ngay cả
trong cộng đồng khoa học.
(…) Các đóng góp
của Heisenberg (Nobel vật lí 1932) trong thuyết lượng
tử mà tôi sẽ nói đến nhiều trong tác phẩm này, sẽ
cho thấy rõ là ý niệm cổ điển về tính khách quan
trong khoa học sẽ không còn được duy trì lâu hơn nữa,
và vì thế mà vật lí hiện đại cũng đang xét lại
huyền thoại của một nền khoa học siêu giá trị. Những
cấu trúc mà nhà khoa học quan sát được trong thiên nhiên
thực ra liên hệ rất chặt chẽ với cấu trúc của tâm
ý họ; với khái niệm, tư tưởng và hệ giá trị của
họ. Do đó, kết quả khoa học mà họ thu được và
sự ứng dụng kĩ thuật mà họ tìm hiểu sẽ rất tuỳ
thuộc vào khuôn khổ tâm thức của họ. Dù nhiều nghiên
cứu đơn lẻ có thể không phụ thuộc rõ rệt vào hệ
thống giá trị của họ, nhưng khung cảnh rộng lớn trong
đó các nghiên cứu được thực hiện cũng không bao giờ
siêu giá trị. Thế nên, nhà khoa học phải chịu trách
nhiệm về công trình nghiên cứu của mình, không những
chỉ về tri thức, mà cả về mặt đạo lí.
Từ cái nhìn này,
mối liên hệ giữa vật lí và đạo học không những rất
thú vị mà còn hết sức quan trọng. Nó chỉ ra rằng, kết
quả của nền vật lí hiện đại đã mở ra hai con đường
khác nhau để nhà khoa học đi theo. Chúng có thể đưa ta
- dùng những từ cực đoan - đến với đức Phật hay
trái bom, và điều này đặt ra cho mỗi nhà khoa học quyết
định chọn lấy con đường.
(…) Hơn thế nữa,
bây giờ tôi thấy có cơ sở vững hơn nhiều với những
luận điểm của mình, vì sự song hành giữa đạo học
phương Đông không những chỉ xuất hiện trong vật lí mà
cả trong sinh học, tâm lí học và các ngành khoa học
khác.
(…) Đối với tôi
lúc nào cũng rõ, và tôi đã nói trong Đạo Của Vật Lí,
rằng sự tương đồng theo cách tôi thấy giữa vật lí
và đạo học phương Đông cũng có thể rút ra từ các
truyền thống đạo học phương Tây.
--------
* (…) Mặc dù các
trường phái đạo học phương Đông khác nhau về nhiều
chi tiết, nhưng tất cả đều nhấn mạnh đến tính
nhất thể của vũ trụ, đó là điểm trung tâm của
mọi giáo pháp. Mục đích cao nhất của kẻ tầm đạo -
không kể Ấn Độ giáo, Phật giáo hay Lão giáo - là luôn
luôn tỉnh giác về sự nhất thể và về mối tương quan
của mọi pháp, vượt lên khái niệm về một cái ngã độc
lập, và tự hoà mình vào “thực tại cuối cùng” đó.
Sự tỉnh giác này - có khi gọi là “giác ngộ”
-không phải chỉ là một tiến trình hiểu biết mà là
một kinh nghiệm tự nếm trải, kinh nghiệm này chiếm
toàn bộ thân tâm hành giả và vì thế có tính chất tôn
giáo.
(…) Điều mà
chúng ta nghe và thấy không bao giờ là bản thân hiện
tượng, mà chỉ là hệ quả của nó. Bản thân thế
giới của nguyên tử và của các hạt hạ nguyên tử thì
nằm bên kia khả năng nhận biết của chúng ta (nhà
khoa học).
(…) Những đơn vị
hạ nguyên tử là một cấu trúc trừu tượng, với thuộc
tính hai mặt. Tuỳ theo chúng ta nhìn nó như thế nào mà
chúng xuất hiện khi là hạt, khi khác là sóng; ánh sáng
cũng xuất hiện hai mặt, khi là sóng điện từ, khi thì
xuất hiện như hạt.
Tính chất này của
vật chất và ánh sáng thật là kì dị. Xem ra không thể
chấp nhận được một cái gì đó vừa là hạt, tức là
một cơ cấu có kích thước rất nhỏ, đồng thời vừa
là sóng, là một cái gì có thể toả rộng trong không
gian. Đối với nhiều người, mâu thuẫn này là một sự
nghịch lí, tương tự như công án, cuối cùng nó dẫn đến
sự phát biểu thuyết lượng tử.
(…) Thế nên
thuyết lượng tử trình bày cho thấy thể thống nhất
của vũ trụ. Nó cho ta thấy rằng không thể chia chẻ
thế giới ra từng hạt nhỏ rời rạc độc lập với
nhau. Khi nghiên cứu sâu về vật chất, ta sẽ biết thiên
nhiên không cho thấy những “hạt cơ bản” riêng lẻ,
mà nó xuất hiện như một tấm lưới phức tạp chứa
toàn những mối liên hệ của những phần tử trong một
toàn thể. Những mối liên hệ này gồm luôn cả người
quan sát. Con người quan sát chính là mắt xích cuối
cùng của một chuỗi quá trình quan sát, và tính chất của
một vật thể nguyên tử chỉ có thể hiểu được trong
mối quan hệ giữa vật được quan sát và người quan
sát. Điều đó có nghĩa là hình dung cổ điển về một
sự mô tả khách quan thế giới tự nhiên không còn giá
trị nữa.
(…) Trong nền vật
lí hiện đại, vũ trụ được thấy như một cái toàn
thể năng động, tự tính của nó là luôn luôn bao gồm
cả người quan sát. Nơi đây thì những khái niệm truyền
thống như không gian, thời gian, vật thể độc lập,
nguyên nhân-kết quả đã mất ý nghĩa. Kinh nghiệm này
rất tương tự với kinh nghiệm của đạo học phương
Đông.
--------
* Mặc dù với
trình độ tri thức cao của nền triết lí, Đại thừa
Phật giáo không bao giờ đánh mất mình trong tư duy trừu
tượng. Như trong mọi hệ thống đạo học phương Đông,
óc suy luận chỉ được xem là một phương tiện mở
đường đi đến những thực chứng siêu hình, điều mà
tín đồ Phật giáo gọi là giác ngộ. Tính chất của
kinh nghiệm này là ở chỗ, phải vượt qua biên giới của
trí suy luận phân biệt và những đối cực, để đạt
tới thế giới của bất khả tư nghì, không thể dùng tư
duy mà tới, trong đó thực tại hiện ra bất khả phân,
một thế giới như-nó-là.
(…) Nội dung trung
tâm của Hoa Nghiêm là sự nhất thể và mối quan hệ
nội tại của mọi sự và mọi biến cố, một quan
niệm không chỉ là cốt tuỷ của thế giới quan phương
Đông mà còn là một trong những yếu tố chủ chốt của
thế giới quan ngành vật lí hiện đại. Do đó người ta
sẽ thấy Kinh Hoa Nghiêm, bộ kinh tôn giáo cổ này, cống
hiến những mối tương đồng nổi bật nhất với các mô
hình và lí thuyết của vật lí hiện đại.
--------
* Tri kiến tâm linh
không bao giờ nhờ quan sát mà đạt được; mà là nhờ
sự tham gia toàn vẹn với tất cả tính chất của mình.
(…).
Tất nhiên nền
vật lí hiện đại làm việc trong khuôn khổ hoàn toàn
khác và không thể đi xa như thế trong việc chứng thực
tính nhất thể của mọi sự. Nhưng trong vật lí
nguyên tử, nó đã đi một bước dài về hướng của thế
giới quan phương Đông. (…).
Nền vật lí này
bây giờ đã thấy vũ trụ là một mạng lưới với những
liên quan vật chất và tâm linh chằng chịt, mà các phần
tử chỉ được định nghĩa trong mối tương quan với cái
toàn thể.
(…) Ngày nay vật
lí hiện đại đã phát triển một thái độ rất khác.
Nhà vật lí đã nhìn nhận rằng, tất cả lí thuyết của
họ về hiện tượng tự nhiên, kể cả những quy luật
mà họ mô tả, tất cả đều do đầu óc con người
sáng tạo ra; tất cả là tính chất của hình dung của
chính chúng ta về thực tại, chứ không phải bản thân
thực tại.
(…) Trong vật lí
lượng tử, người quan sát và vật bị quan sát không thể
chia cắt, nhưng hai cái đó tiếp tục bị phân biệt. Còn
trong đạo học, trong sự thiền định sâu xa thì sự phân
biệt giữa người quan sát và vật bị quan sát hoàn toàn
xoá nhoà, trong đó người và vật hoà nhập làm một.
(…) Sự thay đổi
thế giới quan đang diễn ra sẽ chứa đựng một sự thay
đổi sâu sắc về giá trị; thực tế là sự thay đổi
từ tâm can - từ ý định ngự trị và điều khiển thiên
nhiên đến một thái độ hợp tác và bất bạo
động.
(…) Nền y học
cổ truyền của Trung Quốc cũng đặt cơ sở trên sự
điều hoà của Âm-Dương trong thân thể con người, và
mỗi căn bệnh có nghĩa là thế cân bằng đó bị lung
lay. Thân người gồm có các phần thuộc âm và dương.
Nhìn chung thì các phần nội tạng thuộc dương, phần bên
ngoài thuộc âm; lưng là dương, ngực là âm. Thế cân
bằng giữa các phần đó được một luồng khí chạy
luân lưu giữ vững, khí đó chạy dọc theo một hệ thống
kinh lạc, trên đó là các huyệt. Mỗi đường kinh
liên hệ với mỗi cơ quan thân thể nhất định theo
nguyên lí kinh dương thì nối với cơ quan âm và ngược
lại. Mỗi khi mối luân lưu giữa âm dương bị gián đoạn
thì thân thể bị đau ốm. (…).
****************
3)
Đọc trong
Trí Tuệ Nổi Trội (Karen Nesbitt Shanor; tiến
sĩ sinh học. Dịch giả: Vũ Thị Hồng Việt; NXB Tri Thức,
2007):
* Các nghiên cứu
tại trường Đại học Stanford đã chỉ ra rằng thông
qua suy nghĩ, chúng ta có thể gây ảnh hưởng tới huyết
áp và nhịp tim của một người ở cách xa chúng ta.
Còn các nhà khoa học tại trường Đại học Princeton đã
chứng minh được quá trình trao đổi thông tin giữa hai
người ở cách xa nhau hàng nghìn dặm.
(…) Khoảng không
gian rộng lớn chiếm trên 99% diện tích mỗi nguyên tử
hầu như không có ý nghĩa gì. Tuy nhiên, một số nhà khoa
học hiện đại lại tin rằng khoảng không gian đó,
khoảng không mà trong thế giới phương Tây chúng ta coi là
một mớ vô dụng, lại rất có ý nghĩa. Nó chính là
năng lượng, sự hiểu biết và trên thực tế nó có thể
là bản chất của ý thức.
(…) Và bởi vì
phần sâu trong tâm hồn được coi là nguồn chữa bệnh,
nên một trong những người khởi xướng ra Phòng y học
thay thế tại viện Y học Quốc gia, Tiến sĩ John Spencer
và tôi đã khám phá ra mối liên hệ giữa trí tuệ và cơ
thể - ý thức và y học.
(…) Thông qua cuốn
sách này, chúng tôi phát hiện ra được năng lực của
ý thức sâu kín và cách khai thác nguồn năng lượng khổng
lồ, tình yêu thương và sự thông thái. Ý thức sâu
kín được mọi người biết đến là phần trí tuệ sâu
nhất. Nó được gọi với nhiều tên: quan sát viên giấu
mặt, nhà tư tưởng phía sau những suy nghĩ, trí tuệ điều
hành, người chỉ huy, chứng nhân, khoảng không gian
giữa những suy nghĩ (…).
(…) Những phát
hiện khoa học mới đây và những kinh nghiệm tâm linh đã
từng có lúc hoà hợp với nhau. Đây là điều tốt cho kỉ
nguyên mới. Khoa học có sự liên hệ với bản chất tâm
linh của nhân loại sẽ có thể bỏ xa khoa học công nghệ
của quá khứ trong việc đóng góp vào sự phồn vinh của
nhân loại.
(…) Các nghiên cứu
đang được tiến hành, về cách thức suy nghĩ
của chúng ta ảnh hưởng tới thế giới xung quanh hay tới
một nơi xa xôi nào đó, sẽ có thể khẳng định rằng
suy nghĩ của chúng ta không chỉ thể hiện mà còn tạo ra
được thực tế vật chất.
(…) Các nhà khoa
học cũng đang quay lại và hướng sự tập trung vào việc
tìm hiểu cách thức suy nghĩ và trạng thái của chúng ta
thực sự ảnh hưởng đến lực từ trường bên trong và
xung quanh chúng ta. (…) Những phát hiện này có thể chứng
minh cho tuyên bố từ lâu của những người luyện thiền
và những người tập luyện yoga, rằng những sự rèn
luyện này thực sự làm tăng sinh khí cho chúng ta và tiếp
thêm năng lượng cho ta.
(…) Nhiều
nghiên cứu khoa học đã khiến cho melatonin ngày càng được
biết đến với giá trị như một phân tử chống ung thư.
(…) Thú vị là việc luyện thiền được coi là một
hành động kích thích tuyến tùng và giúp tạo ra được
đủ lượng melatonin cần thiết.
--------
* (Viết chung với
John Spencer, tiến sĩ y học danh tiếng): Các phương
pháp thiền khuyến khích sự thở sâu từ cơ hoành, được
biết đến với chức năng nuôi dưỡng các cơ quan cần
thiết và làm tăng các mức độ năng lượng, tăng tỉ lệ
trao đổi chất và tái sinh các khu vực trì trệ của cơ
thể.
(…) Trong bài báo
“Bí mật bệnh ung thư” đăng trên tờ Newsday xuất bản
năm 1998, Delthia Ricks đã đưa ra khả năng về năng lực
chữa bệnh ung thư của những lời cầu nguyện. (…)
Cũng khoảng thời
gian đó, tạp chí Forbes đã cho xuất bản một bài báo
của John Christy với tiêu đề “Lời cầu nguyện là
một phương thuốc”. Christy đã cung cấp bằng chứng
cho thấy “những người hay cầu nguyện và chú tâm vào
các buổi lễ tôn giáo thì sống khoẻ mạnh hơn những
người ở cùng độ tuổi nhưng có thái độ hoài nghi”,
dựa trên sự xác nhận rằng sức khoẻ bị ảnh hưởng
bởi trạng thái trí não, mà trạng thái trí não lại có
thể bị ảnh hưởng bởi các tín ngưỡng tôn giáo. Ta có
thể thấy một ví dụ trong các tỉ lệ sống sót cao hơn
ở những ca phẫu thuật tim và huyết áp tâm trương thấp
liên tục ở những bệnh nhân có niềm tin tôn giáo mạnh
mẽ.
(…) Một nghiên
cứu xuất sắc đánh giá vai trò của sự cầu nguyện
(cho người khác) trong việc chữa bệnh
do bác sĩ chuyên khoa tim Randolph Byrd tiến hành đã khích
lệ rất nhiều các nghiên cứu sau đó. (…) Các nhóm tôn
giáo khác nhau được cử đến để cầu nguyện cho các
bệnh nhân trong nhóm được cầu nguyện (bệnh nhân
không biết). (…) Các bệnh nhân trong nhóm được cầu
nguyện ở một số khu vực so sánh với những người
trong nhóm không cầu nguyện: Họ dùng thuốc kháng sinh ít
hơn năm lần; họ ít bị mắc chứng phù ở phổi hơn ba
lần; không ai trong số họ cần đến ống thở (…); và
có rất ít bệnh nhân trong nhóm được cầu nguyện bị
chết.
(…) Chúng ta chỉ
mới đang bắt đầu giáo dục về điều này cho những
bác sĩ. Mới đây Hội đồng giáo dục y tế chính thức
thực hiện hai yêu cầu đặc biệt liên quan đến tôn
giáo.
(…) 20 năm trước
khi chúng tôi đề nghị các bệnh nhân tập thiền để có
sức khoẻ, chúng tôi thường gặp phải những thái độ
hoài nghi. Giờ đây người ta đến các khoá học thiền
ngày càng đông. Một công trình nghiên cứu mang tính
bước ngoặt của Benson và Wallace cũng như hàng nghìn
các nghiên cứu khoa học đã cho thấy các lợi ích vật
chất và tinh thần của thiền và đặt nó ở một vị
trí tuyệt vời, như một câu nói của người Scotland
như sau “nó tốt cho những gì làm bạn đau đớn” mà
không có tác dụng phụ nào cả. Bên cạnh đó, sự thiền
định còn cung cấp cho người ta thêm năng lượng và
khiến họ suy nghĩ tốt hơn, tăng cường khả năng ghi
nhớ, tập trung và nâng cao tính sáng tạo.
**************
4) Đọc
trong Sự Sống Sau Cái Chết: Gánh Nặng Chứng Minh
(Deepak Chopra; tiến sĩ y học; được tạp chí Time bình
chọn là một trong 100 anh hùng và biểu tượng của thế
kỉ XX. Dịch giả: Trần Quang Hưng; NXB Văn Hoá Sài Gòn,
2010):
* Sự biến hoá là
điều thần kì nhất trong thời thơ ấu của tôi. Bản
thân cái chết được xem như một điểm dừng ngắn ngủi
trên hành trình vô tận của linh hồn, có thể biến anh
nông dân thành một ông hoàng và ngược lại. Với khả
năng có vô vàn kiếp sống, linh hồn có thể chứng nghiệm
hàng trăm cõi thiên đường và chốn địa ngục.
(…) Vũ trụ mà
tôi và bạn thể nghiệm bây giờ, với cây cối, nhà máy,
con người, nhà cửa, xe cộ, hành tinh và các thiên hà,
chính là ý thức biểu hiện ở một tần số đặc biệt
nào đó. Đâu đó trong thời không có những bình diện
khác nhau đồng thời tồn tại. (…) Các bình diện tồn
tại khác nhau tương ứng với các tần số ý thức khác
nhau. Thế giới vật chất chỉ là biểu hiện của một
tần số nhất định. (…) Thế kỉ 20, khoa học phương
Tây tìm hiểu ra rằng mọi vật thể rắn thực ra đều
được tạo nên bởi những rung động vô hình. (…) Cũng
đúng như các bình diện khác nhau của vật chất, tinh
thần cũng có những bình diện khác nhau. (…) Nếu Trái
đất là bình diện tinh thần đậm đặc, thì chắc chắn
phải có những bình diện tinh thần cao hơn, chúng tôi
gọi là Loka, mà giới thần bí học phương Tây biết đến
như “bình diện siêu hình”. Các bình diện siêu hình
có số lượng dường như vô tận này chia ra thành các
thế giới siêu hình cao hơn và thấp hơn, và thậm chí
thế giới thấp nhất cũng rung động với tần số cao
hơn thế giới vật chất.
(…) Vì nhục thể
rữa nát khi chết, linh hồn rời đi nhập vào giới siêu
hình tương ứng với sự tồn tại của nó ở bình diện
vật chất, vào tần số tương ứng với cuộc sống cũ
của nó nhất. (…) Quá trình biến đổi sau cái chết
không phải là sự di chuyển đến một nơi chốn khác hay
thời gian khác; nó chỉ là sự thay đổi về chất sự
chú tâm của chúng ta. Bạn chỉ có thể nhìn thấy
những gì có rung động tương ứng với bạn.
(…) Khi những tri
giác thông thường trở nên mờ nhạt thì những tri giác
tinh tế lại trở nên thính nhạy hơn. Chúng ta vẫn nhìn
và nghe được sau khi chết, nhưng lúc đó đối tượng
không còn là vật chất nữa. Chúng bao gồm bất kể cái
gì ta muốn thấy trong cõi siêu hình: nào thiên cảnh,
thiên âm, nào quần tiên, nào hào quang chói lọi. Ở trạng
thái sắp chết, mặt, giọng nói, hoặc một biểu cảm
khác là những biểu hiện đặc trưng nhất. Trong các nền
văn hoá khác người ta có thể chờ đợi cuộc chạm trán
với ma quỷ hoặc súc vật. Người đang chết thường cảm
thấy cái gì đó phảng phất quanh mình - một hơi ấm,
một hình ảnh mờ nhạt hoặc âm thanh nào đó trước khi
rời khỏi thể xác. Bằng cách nào đó những điều
này liên thông với tần số rung động của người đang
chết. (…) Một khao khát bất thành hoặc không được
phép, trở nên tiêu cực. Một ham muốn hưởng thụ cũng
khiến hồn khó siêu thoát.
(…) Các bậc thánh
nhân và hiền nhân có đặc quyền hiện diện đi đó đây
tự do trong các cõi siêu hình mà không bị hạn chế bởi
các ham muốn. Những linh hồn bấn loạn mắc kẹt giữa
hai thế giới, và nếu những người thương yêu bị bỏ
lại cứ cầu nguyện gọi hồn, cứ đau khổ, hoặc toan
tính tiếp xúc với người đã mất, linh hồn sẽ tiếp
tục xốn xang.
(…) Cuối cùng câu
hỏi “Cái gì xảy ra sau khi chúng ta chết?” trở thành
“Cái gì xảy ra sau khi tôi chết?”. Vấn đề thành
ra có tính cá nhân, duy cảm và không thể phớt lờ.
--------
* Bất kể chuyện
gì xảy ra lúc chết, tôi tin rằng nó xứng đáng được
gọi là phép mầu. Mà phép mầu, trớ trêu thay, chính
là ở chỗ chúng ta không chết. Sự dừng lại của cơ
thể là ảo ảnh, và giống như nhà ảo thuật vén lên
một bức màn, linh hồn khám phá ra điều gì nằm ở bên
kia. Các nhà tu thần bí đã biết nỗi vui sướng của
khoảnh khắc này từ lâu.
(…) Vì là phép
màu vô hình, cái chết cực kì khó nẳm bắt. Nhưng chúng
ta có những manh mối hấp dẫn là những gì nằm “phía
bên kia” thực ra cực kì gần gũi với chúng ta bây giờ.
(…).
(…) Trước Big
Bang thời gian chưa trôi: mỗi giây tương ứng với vĩnh
cửu. Chúng ta ước đoán thế vì vật lí lượng tử
xuyên qua ảo ảnh thời gian, tách khỏi đồng hồ nguyên
tử để đi sâu hơn vào nhà máy Tự nhiên. Rung động
dừng lại tại mức độ sâu nhất. Đáy của vũ trụ
giống như bộ não chết. Tuy nhiên biểu hiện của cái
chết là ảo giác, vì biên giới nơi mọi hoạt động
chấm dứt đánh dấu sự bắt đầu một vùng mới, gọi
là thực tại ảo – nơi vật chất và năng lượng tồn
tại dưới dạng tiềm năng thuân tuý. Cơ sở của thực
tại ảo rất phức tạp nhưng nói một cách đơn giản
nhất, vùng phi vật chất phải tồn tại để sinh ra vũ
trụ vật chất. Vùng này trống rỗng nhưng không hề
hư vô. Như khi bạn ngủ gật trên giường, trí óc bạn
trống nhưng có thể tỉnh ngay cho vô số lựa chọn của
ý nghĩ, thực tại ảo tỉnh giấc cho vô số thực tại
của các sự kiện mới. Sáng tạo nhảy vọt từ trống
rỗng lên đầy tràn, cũng như vĩnh cửu nhảy vọt từ
phi thời gian sang đầy tràn thời gian.
Nếu vĩnh hằng
đang cùng với ta bây giờ, làm cơ sở cho toàn bộ tồn
tại vật chất, nó phải làm cơ sở cho tôi và bạn.
Ảo giác thời gian nói rằng bạn và tôi bị phóng theo
đường thẳng từ Sinh đến Diệt, trong khi thực ra chúng
ta ở trong cái bong bóng bị vĩnh cửu buông xuôi.
Thực ra sự kiện
chết chưa bao giờ xa xôi thế, và biên giới cố định
giữa sống và chết không phải là không thể vượt qua.
(…) Sai lầm không phải ở chỗ ta sợ chết mà là ta
không tôn trọng nó như một phép mầu.
(…) Tiến sĩ
Lommel, người lãnh đạo chương trình kinh nghiệm cận tử
(…) thẩm tra 344 người bệnh loạn tim trong bệnh viện
(tim đáng lẽ đập bình thường thì lại co thắt hỗn
loạn). Tiến sĩ Lommel nói chuyện với họ trong vòng vài
ngày trong khi họ sống lại và phát hiện ra việc gây mê
và các loại thuốc không gây ảnh hưởng kinh nghiệm của
họ. Tuy nhiên ông kinh ngạc hơn cả với các báo cáo về
ý thức trong khi não không hoạt động. Nhiều năm sau
nghịch lí này vẫn khiến ông sợ hãi: “Vào thời điểm
đó những người này không chỉ có ý thức; ý thức của
họ thậm chí bao quát hơn lúc nào hết. Họ có thể tư
duy hết sức sáng suốt, có trí nhớ về tuổi thơ xa nhất
và thể nghiệm sự liên kết chặt chẽ với mọi người,
mọi vật xung quanh. Và bộ não hoàn toàn không có một
chút biểu hiện hoạt động nào”. (…) Có thể là ý
thức không nằm trong bộ não. Đó là một khả năng gây
sửng sốt, nhưng phù hợp với truyền thống tâm linh cổ
đại nhất thế giới.
(…) Khoa học trong
thời đại vật lí lượng tử không phủ nhận sự tồn
tại của các thế giới vô hình. Hoàn toàn ngược lại.
(…) Không thể nắm
bắt Vĩnh hằng bằng trí óc trong trạng thái tỉnh thức
thông thường của chúng ta. Trạng thái tỉnh thức của
chúng ta bị thời gian khống chế trong khi Vĩnh hằng thì
không.
(…) Tiếp theo, như
người chết đuối nhìn thấy cả cuộc đời mình trôi
qua trước mắt, nghiệp của một người bung ra như chỉ
gỡ khỏi suốt, và các sự kiện của cuộc đời này
diễu ngược lại qua màn ảnh của tâm trí. Bạn thể
nghiệm lại tất cả các thời điểm trọng đại từ khi
sinh ra, chỉ có điều lúc này rất sinh động và rõ ràng
khiến bạn nhìn thấy chính xác từng thời điểm có
nghĩa gì. Cái đúng và sai cũng hiển hiện rõ ràng,
không có sự tha thứ hay những giải thích duy lí. Bạn
chịu trách nhiệm cho mọi điều đã làm.
(…) Những người
nghi ngờ khả năng tâm linh đặc dị làm ngơ trước vô
số những nghiên cứu cho thấy ý nghĩ thông thường có
thể thực sự tác động đến thế giới. Điều này
đặc biệt quan trọng nếu tâm trí là trường.
(…) Trường ý
thức là cơ sở của mọi hiện tượng trong tự nhiên bởi
vì khe hở tồn tại giữa mọi electron, mọi ý nghĩ, mọi
khoảnh khắc thời gian. Khe hở là điểm khống chế, sự
tĩnh lặng ở tâm của sáng tạo, nơi vũ trụ liên kết
mọi sự kiện.
*****************************************************************