Ngô Diệu Hằng |
“Ới ơi…!” - Một tiếng kêu trong vắt vang lên rồi đứt ra
nghẽn lại sau tiếng nấc.
Tôi giật mình tỉnh dậy, nước mắt tràn ra từ bao giờ. Hình
như tiếng kêu đó vang lên trong một giấc mơ còn mờ ảo tan trong trùng trùng vô
thức… Tôi đã đọc đâu đó, người ta nói rằng: một nửa giấc mơ của bạn sẽ mất đi
sau năm phút di chuyển. Bởi thế tôi cố gắng không xê dịch cơ thể, tĩnh lặng
trong âm thanh của buổi sáng còn tờ mờ sương, chẳng dám nhìn vào những tán lá
động, chỉ để cố nhớ lại giấc mơ kỳ lạ nào vừa đi qua mà làm sự yếu đuối trong
tôi bật khóc. Thế nhưng, điều mà khoa học chứng minh kia dường như ngược lại.
Tôi hầu như không thể nhớ những giấc mơ của mình khi vừa tỉnh dậy dù cảm giác
vẫn còn lưng chừng đâu đó. Có thể một lúc nào đó nó sẽ hiện về.
Dì Thu trở mình, từng cơn ho dài kéo lên rồi đứt. Dì nằm ngủ
ở gian bếp. Căn bệnh thấp khớp vẫn đêm đêm hành hạ dì bao năm nay. Chiếc giường
tôi đang nằm là của em trai Thảo. Cậu ấy lấy vợ ở Campuchia, một năm về nhà vài
ngày rồi lại đi. Người ta bảo cậu bị bùa mê tình. Năm đó đi làm việc ở
Campuchia cậu đã yêu một cô gái người Chăm. Khi có ý định chia tay và trở về
nước cô gái đã buộc chặt cậu bằng thứ mà người ta gọi là bùa mê tình. Mỗi năm
nếu được về nhà thăm mẹ thì vài ngày sau cậu sẽ tự quay trở lại. Buổi sáng thức
dậy không thấy con đâu là dì biết nó đang trên đường trở lại mảnh đất xa xôi
ấy. Dì Thu sống cô đơn trong căn nhà lạnh lẽo nhưng dì vẫn phải sống và hy vọng
ngày con trai trở về.
Tôi và Thảo cùng uống chung một bầu sữa mẹ. Sinh tôi chưa
bao lâu thì mẹ bị mất sữa. Nội nói phải kiếm bằng được sữa mẹ cho tôi. Ba đi
khắp nơi tìm người xin cho tôi bú nhờ. Nhà dì Thu ở cách nhà tôi một con sông.
Ngày đó ba vẫn chèo thuyền đưa hai mẹ con tôi qua nhà dì Thu. Tôi sống được
khỏe mạnh cũng nhờ dòng sữa ấm áp của dì. Nội bảo, công ơn dì Thu không bao giờ
được quên. Người lớn còn hứa sau này cho tôi và Thảo cưới nhau để nối tiếp cái
duyên nợ ấy.
Chúng tôi lên lớp năm thì ba Thảo mất vì tai nạn. Khi mà tôi
còn chưa biết cầm cái chổi quét nhà thì Thảo đã thay mẹ chăm em, vừa làm việc
nhà vừa học bài. Lớn lên, biết chèo thuyền, tôi thường chèo qua nhà Thảo chơi,
chở Thảo đi hái sen, vớt bèo cho lợn. Thảo dịu dàng, mỏng manh. Khuôn mặt em
nhỏ nhắn, còn đôi mắt thì to tròn, đen nhánh. Mái tóc em không bao giờ dài quá
lưng vì nó yếu ớt như cái thân hình mảnh dẻ của em vậy.
Tôi thi đỗ đại học, còn vận may thì không đến với Thảo. Em
nói nếu có thể thì năm sau em sẽ thi tiếp. Mỗi tháng tôi lại bắt chuyến tàu từ
sáng sớm tinh mơ, chờ đợi rồi chen lấn mua vé để về nhà. Ga tàu cách nhà tôi
vài cây số nhưng không xa nhà Thảo là bao. Mỗi lần xuống tàu với tôi như một
khoảnh khắc quá đẹp đẽ không thể nào quên. Khi tiếng còi tàu rít lên chưa dứt,
tôi lại thấp thỏm nhìn ra cửa sổ nơi Thảo vẫn thường đứng đón tôi với chiếc xe
đạp; vào khoảng thời gian ấy, cùng chiếc nón thắt quai màu tím ôm lấy khuôn mặt
em dịu dàng. Cái hình ảnh em đứng đó bình tĩnh chờ đợi tựa như cơn gió mát dịu
thổi vào tim tôi một cảm giác thật yên bình. Có những hôm tàu trễ, trưa nắng
chang chang vẫn thấy em đứng đợi ở đó, trên giỏ xe còn có vài bông sen thật
đẹp. Năm tháng trôi qua, thứ tình yêu không ngôn ngữ ấy đã nuôi lấy tâm hồn tôi
vượt qua bao khó khăn, thử thách, đạp vỡ những cám dỗ đời thường và có những
giây phút thực sự thăng hoa cho nghệ thuật.
Em cùng tôi ngồi trên cỏ nhìn ra bàu sen. Những búp sen màu
hồng nhạt vươn cao trên mặt nước. Bên dưới, những chiếc lá trải rộng xanh ngắt
như bàn tay cứng cáp che chắn, nâng niu cho những bông sen luôn sạch sẽ, đẹp
rạng ngời. Thảo nói em thích nhất là hoa sen. Tôi ghé vào tai em tinh nghịch:
- Anh thì thích Thảo.
Em nghiêng đầu thắc mắc:
- Thế anh không thích hoa sen sao?
Tôi giả bộ thở dài, nhoài người nhìn ra phía bàu sen và nói:
- Anh xin lỗi hoa sen nhé. Hoa sen thật đẹp! Nhưng người con
gái ngồi đây lại giống hệt hoa sen, mà anh lại thích cô ấy mất rồi…
Thảo ngại ngùng bâng mặt rúc vào ngực tôi. Đôi khi tôi cảm
thấy em xem tôi như người anh, muốn tựa, muốn ôm nhưng chưa lần nào em dám
khóc, dẫu qua ánh mắt tôi đoán biết em có điều gì ấp ủ. Thảo hái một lá cỏ đặt
vào lồng bàn tay rồi khe khẽ:
- Em chỉ muốn là cỏ, một nhánh cỏ nhỏ bé giữa đời. Cỏ rất
bình thường, không đẹp, không sặc sỡ và chẳng ai chú ý đến. Nó chỉ sống đủ thời
gian cần thiết, một cuộc sống bình lặng, ý nghĩa rồi tự lụi tàn.
- Em nói sao buồn quá! Nhưng em biết không, hương cỏ chẳng
có gì đặc biệt nhưng ai đã yêu nó thì dẫu đi đâu về đâu họ cũng chỉ muốn trở về
để được ngửi thấy mùi quê hương đồng nội mà thôi…
Dẫu hoàn cảnh khiến em có những suy nghĩ buồn nhưng tôi
biết, đằng sau đó vẫn là Thảo của tôi, một cô gái nhân hậu, chịu khó và mang vẻ
đẹp thôn quê dịu hiền.
***
Năn nỉ mãi Thảo mới chịu
làm mẫu cho tôi vẽ. Em chèo thuyền hái sen, cái hình ảnh rất đỗi bình dị, quen
thuộc ấy bỗng nhiên trong giây phút thiêng liêng của nghệ thuật trở nên đẹp lạ
lùng. Bàn tay nhỏ gầy của em nhẹ khua xuống mặt nước cho thuyền trôi thật chậm,
chiếc áo bà ba, chiếc nón buộc dây màu tim tím… tất cả đều rất chậm rãi in vào
trí nhớ tôi. Có những khoảnh khắc tôi mãi ngắm em mà quên mất mình phải vẽ.
Thảo rất ít cười, tuy rằng với tôi nụ cười em thật đẹp. Em không có má đồng
tiền, không có chiếc răng khểnh duyên dáng nhưng tôi tôn thờ làm sao những giây
phút được ngắm nụ cười rất khẽ của em. Lần đó trời mưa nên tranh vẫn chưa vẽ
xong. Tôi nhờ Thảo giữ hộ, đợi một buổi sáng thời tiết thật đẹp lại cùng em đến
bàu sen vẽ tiếp.
Cứ mỗi lần tiếng còi tàu vang lên, chiếc tàu bắt đầu cựa
quậy trên đường ray lòng tôi lại thấy buồn và dường như tôi cũng nhìn thấy điều
đó trong ánh mắt em dõi theo. Chia tay em tôi trở lại trường, lao vào vẽ như
một kẻ điên, cố gắng giành được kết quả tốt nhất làm món quà tặng em. Nếu biết
đó là lần cuối cùng được gặp em thì tôi đã không bao giờ bước lên chuyến tàu
ngày hôm đó.
Tiếng còi tàu rít lên giục giã, lòng tôi bỗng nhiên cảm thấy
sợ, có bao giờ tôi sẽ không còn được thấy em đứng đó đợi tôi như em vẫn. Bước
xuống tàu, cố đợi cho sân ga vắng vẻ, tôi nhìn quanh vẫn không thấy em đâu. Và
rồi tôi tự an ủi lòng mình hẳn là em không biết hôm nay tôi về. Tôi vội vã,
băng qua đường ray chạy nhanh về nhà em. Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ rõ cảm
giác đôi chân mình lúc đó, chúng như bấu víu vào nhau để chạy thật nhanh. Một
cảm giác vừa mừng, vừa có gì đó run rẩy, giục giã. Như mọi lần tôi gọi Thảo ơi,
dì Thu ơi… Dì Thu ngồi ở cửa nhà có vẻ như đang khóc, vội vàng lấy tay áo lau
nước mắt. Không kịp đợi dì đáp lại, một linh cảm không lành, tôi lần theo mùi
trầm hương đang tỏa từ trong nhà ra. Chiếc ba lô và cọ vẽ rơi lả tả theo bước
chân tôi vô hồn. Đằng sau những bình hoa sen nở to là làn khói nghi ngút bay
lên. Khuôn mặt Thảo dần hiện ra bên một đài sen rụng cánh. Đôi mắt em mở to
nhìn tôi. Nụ cười thân thương của em trong phút giây ấy vô tình chạm vào trái
tim tôi đau nhói. Tôi không đứng vững, càng không dám nhìn thêm khuôn mặt em.
Dì Thu đến bên cạnh tôi từ lúc nào, nhẹ nhàng ôm tôi vào lòng. Có thể lúc ấy dì
đang nghĩ rằng trong vòng tay dì là Thảo. Còn tôi, tôi khao khát dù chỉ một lần
nữa thôi được em tựa vào ngực rồi gọi tiếng “anh” khẽ như một cô bé. Tôi muốn
được chở che cho em suốt đời. Nhưng cái cơ hội đó em cũng không cho tôi một lần
được nói ra…
Dì Thu khóc, hơi thở của dì đứt ra từng mảnh rồi tan như làn
khói giữa không trung. Một mình chăm lo cho hai chị em nên dì luôn bận rộn từ
sáng sớm đến tận khuya. Khi trời vẫn còn mờ sương dì đã gánh xôi đi bán rong
hàng chục cây số. Buổi chiều trở về lại tất tưởi ra đồng. Thảo vốn ốm yếu từ
nhỏ và em luôn giữ lấy phần thiệt thòi cho riêng mình. Nhớ có lần dì Thu đã
cõng em chạy ba cây số đến trạm y tế khi em chảy máu cam và ngất xỉu một mình ở
nhà. Sau lần đó Thảo không bao giờ để mẹ phải lo lắng nữa, em bình tĩnh và kín
đáo một cách lạ thường. Dường như em đã gắn cho mình một số mệnh và lặng lẽ
sống cùng nó. Một buổi chiều muộn làm đồng trở về dì Thu thấy con đang nằm im
trên giường, mềm mại, mỏng manh như một lá cỏ mùa thu. Sự ra đi của Thảo dường
như đã mang theo cả nụ cười còn lại của dì.
* * *
Tôi ngồi dậy lau nước mắt, ra múc nước giếng rửa mặt. Một
mùi thơm thân quen chợt tràn lên sống mũi như luồng cảm xúc mênh mang gợi bao
niềm thương nhớ. Mùi hương cỏ tan vào trong gió rũ nhau về tắm gội miền ký ức
tôi vào buổi ban mai nắng hồng. Và đâu đó những mảnh ghép giấc mơ kia hiện về,
tôi lại ngẩn ngơ trong miền vô thức. Tôi thấy mình đang chào tạm biệt bạn bè
rồi vội vàng chạy về nhà thật nhanh. Chạy mãi, chạy mãi với một ý chí rất cao
như thể cần phải trở về để làm một việc gì đó còn dang dở. Rồi tôi thấy mình
đang đứng trên một cây cầu, đúng ra là trên những guồng nước liên tiếp nhau
quay tít, dưới kia là dòng suối đang cuộn chảy. Tôi cố gắng lách qua từng guồng
nước để tiến về phía trước. Bỗng nhiên, kẻ vượt guồng nước lại bị lạc vào giữa
một khu rừng. Lạ thay, khu rừng chỉ toàn cây cỏ không một tiếng động của muông
thú hay bất cứ âm thanh gì của sự sống. Sự lặng yên đến ớn lạnh kéo dài trong
một thời gian. Có lẽ lúc đó linh hồn tôi đang bay lơ lửng trong chính giấc mơ
của mình tìm một lời giải. Một lúc sau đó tôi thấy mình xuất hiện cạnh một con
đường có xe cộ và nhiều người qua lại. Sự sống thì sôi động nhưng tất cả đều xa
lạ tựa như những hình thể chuyển động, song vô cảm. Tôi kể về những nơi tôi vừa
đi qua và hỏi đường, hầu như tất cả những con người kia nhìn tôi với ánh mắt
khó hiểu. Tôi không nghe thấy họ nói gì, cũng không nghe thấy tôi đang hỏi
đường về đâu. Hình như cả tôi và họ không hề hiểu nhau và có lẽ chẳng thể hiểu
nhau. Sự hoang mang khiến tôi đứng lặng yên trong giây lát. Có cái gì đó ôm
chặt dưới chân, một đứa bé nhỏ xíu, như vừa mọc lên từ lồng đất. Sở dỉ tôi nói
nó mọc lên vì tôi chẳng hề cảm thấy sự tồn tại của nó trước đó. Đôi mắt nó sáng
trong như thiên thần nhìn lên tôi đầy thương cảm. Nó nhìn tôi một hồi lâu, còn
đôi tay thì mỗi lúc một siết chặt. Hai đôi mắt cứ nhìn nhau như thế cho đến khi
có tiếng kêu vang lên “ới ơi…!” từ khuôn miệng bé xinh, trong veo như một giọt
sương mai đọng trên nhánh cỏ non chưa ai chạm đến. Tiếng kêu cao vút rồi đứt
gãy bởi một tiếng nấc. Và nước mắt tôi trào ra. Giấc mơ tan…
Đã hai năm trôi qua. Mỗi lần về nhà tôi vẫn thường sang thăm
dì Thu. Đã có lần dì nhắc tôi về bức tranh ngày xưa còn dang dở, nhưng dường
như mỗi khi có ý định mang nó ra để hoàn thành thì một cảm giác xót xa bỗng
trào dâng chặn đứng suy nghĩ đó. Lần này tôi muốn vẽ. Có lẽ Thảo đã mang đến
cho tôi giấc mơ ấy, mùi hương ấy khi tôi bay trong chính giấc ngủ của mình, hay
em muốn nhắc nhở tôi hãy làm tiếp cái việc mà tôi đã cố chạy thật nhanh để trở
về thực hiện. Tôi mang bức tranh ra bàu sen đặt lên giá vẽ. Hình bóng của Thảo,
tất cả khung cảnh ngày ấy hiện về trước mắt. Tôi khuấy nhẹ lên bức tranh một
làn nước mỏng, có lẽ chừng đó đã đủ vì chính Thảo mới là linh hồn và dường như
em đang ở trên chiếc thuyền nhỏ rẽ nước qua những đám sen đang vươn lên trong
nắng sớm. Ngắm em trong tranh nước mắt tôi khẽ rơi xuống đám cỏ. Tôi ngồi bệt
xuống và lướt nhẹ tay lên làn cỏ êm như tấm nhung mềm, nhớ có lần em nói chỉ
muốn làm nhánh cỏ giữa đời…
Tôi lồng bức tranh vào khung kính gắn vào chính giữa
Gallery, cái thế giới yên tĩnh mà tôi từng mơ ước giờ đã có. Tôi sẽ không bao
giờ bán tác phẩm quý giá nhất đời mình, cũng như chẳng bao giờ để vẻ đẹp của em
phai nhạt đi theo dòng thời gian. Một số người vẫn hay đặt câu hỏi “Tại sao
trong tranh không hề có dấu vết một ngọn cỏ nào mà lại đặt tên là Cỏ?” Tôi chỉ
cười và nói “Đơn giản vì đó là Cỏ.” Tôi ngắm em hàng giờ. Tôi biết rằng rồi đây
tôi sẽ già, còn em sẽ mãi đẹp như thế, dịu dàng, tinh khôi như thế.
Mỗi lần ở lại phòng tranh, đêm khuya thức giấc tôi lại ra
ngồi giữa phòng hút thuốc. Trong làn khói thuốc mơ màng như hàng trăm guồng
nước đang quay tôi thấy em từ trong tranh bước ra đưa tay tiến lại gần tôi, bàn
tay em nhỏ gầy, mềm mại tựa lá cỏ mùa thu.
Ngô Diệu Hằng