Tác giả Lê Nghị
VĂN
HỌC SỬ: MỘT GÓC NHÌN MỚI VỀ NGUỒN GỐC CHÂN THỰC CỦA TRUYỆN KIỀU
(tiếp theo)
Lê Nghị
Nhiều người nghĩ rằng tôi bài Tàu nên đưa ra tư tưởng
cực đoan: Nguyễn Du tự vẽ nên truyện Kiều! Thực ra các vị đó chưa đọc hết những
gì tôi đã viết. Có tích mới dịch ra tuồng. Đó là kinh nghiệm lâu đời cha ông
truyền lại, tôi làm sao quên!?
Khảo sát của tôi là xác định phần nào Nguyễn Du đã mượn
để chế biến, phần nào là sáng tạo.
Vì dễ lầm lẫn khi gọi tên Kim Vân Kiều truyện thơ của
Nguyễn Du, (vốn nguyên thủy mang tên Đoạn
Trường Tân Thanh sau bị đổi tên là Kim Vân Kiều truyện) với Kim Vân Kiều
truyện văn xuôi của TT tài tử, nên trong bài này khi nói đến thơ là “Truyện Kiều”
khi nói đến cuốn văn xuôi của Thanh Tâm tài tử là “KVKT”.
Trong bài trước tôi nhắc đến mặt sử liệu, căn tích
truyện Kiều được ghi chép: Minh Sử + Mao
Khôn + Từ Học Mô.
Về mặt tiểu thuyết, nếu chia truyện Kiều thành 3 phần
: Phần đầu + đỉnh điểm + kết thúc thì các nhân vật có tên hoặc hành vi tương ứng
với truyện Kiều, xuất hiện trong các tác phẩm trước Nguyễn Du:
Kịch Hổ Phách Chuỷ + truyện ngắn Vương Thuý Kiều + đoạn
cuối truyện thơ Nôm Hoa Tiên.
Trong khi đó các Thanh Tâm Tài Tử lấy căn tích và kết
cấu KVKT :
- Sử liệu: Mao Khôn.
- Tiểu thuyết: Thơ Kiều + Hổ Phách Chuỷ.
Chúng tôi phân tích vì sao các TT tài tử không biết đến
sử liệu Vương Kiều Nhi của Từ Học Mô và truyện ngắn Vương Thuý Kiều của Dư
Hoài.
Đây là một điểm quan trọng của việc đối chiếu văn bản
để biết ai bắt chước ai.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du nói ngay bà Kiều họ
Vương. KVKT cũng nói thế. Nhưng KVKT từ đầu đến cuối chỉ gọi nhân vật Hồ Tôn Hiến
là Đốc Phủ hệt “Kỷ tiểu trừ Từ Hải bản mạt” của Mao Khôn.
Trong khi truyện Kiều gọi đích danh và chức vụ:
Có
quan tổng đốc trọng thần
Là
Hồ Tôn Hiến kinh luân gồm tài.
Tên Hồ Tôn Hiến và chức danh tổng đốc chỉ xuất hiện
trong Minh sử và Vương Kiều Nhi truyện của Từ Học Mô, Vương Thuý Kiều của Dư
Hoài.
Chứng tỏ rằng nhà nho tài tử nào viết chương này chưa
được thông kinh sử Tàu như Nguyễn Du. Vị này chỉ đọc Mao Khôn. Vì Mao Khôn là
người dưới trướng Hồ Tôn Hiến, khi viết sử liệu về chủ mình chỉ gọi là Đốc Phủ
và không thể tự tiện gọi đích danh chủ mình vì vô lễ. Cũng không thể tuỳ tiện
tôn chủ mình là trọng thần và có tài kinh luân trình vua và người khác được. Sử
gia luôn thận trọng xưng hô từ vị trí của mình.
Nếu là văn nhân người Hoa đời sau, họ hiểu sử và truyện
họ hơn, có thể họ đã gọi như Nguyễn Du hoặc có thể chi tiết hơn vì đã đọc rộng
hơn vị nhà nho tài tử này.
Vì vậy vị nhà nho tài tử Việt Nam khi diễn thơ Kiều
cũng chỉ hiểu “trọng thần” và “kinh luân” Nguyễn Du dùng chắc là những từ thuận
miệng và cũng để hợp vần.
Truyện Vương Thuý Kiều của Dư Hoài tuy rất ngắn cũng đề
cập tới tên và chức danh: Tổng đốc Hồ Tôn Hiến. Nhưng có đọc Từ Học Mô mới thấy
tổng đốc toàn quyền dẹp loạn biển có bản lĩnh và trí trá của nhà chính trị như
thế nào. Hồ Tôn Hiến được vua nhà Minh giao cho toàn quyền dẹp loạn đang khi
các người tiền nhiệm không giải quyết được. Chính vì vậy một mặt Hồ Tôn Hiến phải
đối phó với cánh thất sủng xuyên tạc với vua chính sách chiêu hàng có vẻ không
nhất quán của ông, nhằm hất ông. Mặt khác ông phải giữ bí mật tới cùng mưu đồ
diệt loạn tận gốc.
Từ Hải chỉ huy một cánh quân của phong trào loạn biển
có sự hỗ trợ của Nhật Bản. Nhưng dần dần với dũng lược của mình uy danh Từ Hải
đã lấn những cánh khác kể cả Vương Trực là tổng chỉ huy liên minh. Do đó Từ Hải
bị ngầm ganh tị. Hồ Tôn Hiến đã khai thác mâu thuẫn giữa những thủ lĩnh với Từ
Hải, dụ được Từ Hải diệt lần vây cánh của Vương Trực. Từ Hải đơn thân gặp Hồ
Tôn Hiến nhiều lần, nhưng Hồ Tôn Hiến không bắt giữ mà cư xử hữu hảo. Đợi cho
Vương Trực cô độc ngõ ý thương lượng, lòng quân Từ Hải phân tán: “Ngọn cờ ngơ ngác trống canh trễ tràng”.
Hồ Tôn Hiến mới quyết định diệt Từ Hải uy dũng trước, Vương Trực sau. Nguyễn Du
chỉ tóm tính cách nhà chính trị Hồ Tôn Hiến trong hai từ kép: Trọng thần và
Kinh luân.
Cho nên người Việt như các nhà nho tài tử thời Nguyễn,
không đọc sử, tán theo thơ Truyện Kiều, nhắc tới Đốc Phủ là một vị tướng nào đó
của triều đình nhà Minh chung chung. Nếu thật sự tác giả KVKT là một văn nhân
người Hoa, ắt hiểu lịch sử nước họ hơn ta, thì tác giả sẽ kéo dài tình tiết Từ
Hải và Hồ Tôn Hiến đấu trí, đấu binh lực hấp dẫn độc giả như những pha của Tam
quốc Chí diễn nghĩa, Thủy Hử truyện... Nhưng khả năng hiểu biết sử Tàu của các
tài tử Việt sao sánh với chánh sứ Việt Nam được. Do đó KVKT nói đến Đốc Phủ là
nói theo Mao Khôn, không ghi tên thật, chức vụ thật, vì sao gọi là trọng thần,
tài kinh luân chỗ nào, chỉ tán trong phạm vi lời thơ của truyện Kiều.
Tương tự ngày nay ta thấy các nhà bình truyện Kiều, dù
biết đến rõ tên và chức vụ Hồ Tôn Hiến cũng chỉ biết nhấn mạnh đến câu: “Cho hay mặt sắt cũng ngây vì tình”. Chữ
ngây được nhấn mạnh là mê và ngu. Thậm chí để bôi xấu các quan thời phong kiến,
các nhà phê bình thường nhấn mạnh đấu tranh giai cấp, xem trọng thần và kinh
luân gắn với Hồ Tôn Hiến là nhằm mĩa mai, thực chất họ Hồ chỉ là một kẻ bất tài
nhờ lo lót mà được việc. Các vị đó cũng chưa từng nắm chắc sử liệu. Ở đây, tôi
cho rằng để hiểu đúng từng câu từng chữ của Nguyễn Du cần cân nhắc cẩn thận.
Ông đã miêu tả rất chân thực về Hồ Tôn Hiến. Với tư cách trọng thần của quốc
gia, Hồ Tôn Hiến là một vị quan đảm lược đáng trọng nể. Với tư cách là con người,
ông cũng như 99,9% những gã đàn ông trên trần thế, trong đó có cả tôi.!
Tôi chắc rằng phần lớn các nhà Kiều học Việt Nam sau
này cũng không biết đến sử liệu của Từ Học Mô. Hoặc có biết cũng không thấy có
gì lạ. Cho nên sách vở VN chưa nhắc đến tên tác giả này. Chỉ nhắc tới Mao Khôn
và Dư Hoài. Ta cũng không trách, vì các nho sĩ tài tử xưa còn không biết nói
chi như tôi ngày nay. Quan trọng là ngày nay ta, nhất là lớp trẻ, có điều kiện
cần tìm hiểu thêm và nhìn nhận lại.
Tiếp đến có một số tên nhân vật truyện Kiều trong một
vở kịch, theo danh mục sách Trung Hoa, được ghi là viết ra năm 1707. Tức là có
trước Nguyễn Du. Vì vậy ta kết luận Nguyễn Du đã mượn tên các nhân vật này. Đó
là vở kịch Hổ Phách Chuỷ của Diệp Trĩ
Phỉ.
Có lẽ nhiều học giả mới lần đầu nghe đến. Tôi chưa đọc
được bài của học giả trong nước nhắc đến, trừ Nguyễn Văn Sơn có lướt qua nhưng
không nêu rõ. Tôi cũng chưa được đọc kịch này, chỉ dẫn theo Benoit. Benoit nhấn
mạnh trong vở Kịch này không có tên Thuý Kiều, Từ Hải và Hồ Tôn Hiến. Nó là một
vở kịch về chuyện lầu xanh. Ca kịch cổ luôn ước lệ phân ra chính tà, thiện ác từ
vóc dáng đến tên gọi. Nhân vật mang tên Tú Bà, cái tên ma ma thông dụng của nhà
thổ: “ăn gì cao lớn đẩy đà làm sao”.
Cái tên Thúc Thủ, hàm nghĩa là bó tay, sợ vợ : “Làm cho chàng Thúc ra người bó tay”. Mã Bất Tiến hàm nghĩa con ngựa
què, nhảy bậy. Sở Khanh hàm nghĩa gã thô tục. Hoạn thư, tiểu thư nhà quan. (không
chừng chơi chữ : bà nhà sẵn sàng thiến các đức ông chồng trăng hoa...)
Tuy Vở kịch đời kỹ nữ trắc trở này chẳng liên quan gì
đến các sự kiện lịch sử, nó được lưu diễn bởi các đoàn kịch trước sau năm 1707.
Cho nên nội dung của nó cũng lưu truyền. Nó cũng có dị bản thêm bớt. Nguyễn Du
có xem kịch, có thể trong đợt đi sứ, hoặc có đọc kịch bản, mới lấy tên nhân vật,
hư cấu tình tiết tạo ra cuộc đời luân lạc của Vương Thuý Kiều. Các tài tử ham
vui của ta ắt là có biết đến vở kịch này nên khi diễn thơ Nguyễn Du đã gắn tên
như Thúc Thủ, thay Thúc Sinh, Mã Bất Tiến thay Mã giám sinh trong thơ Kiều hợp
lý.
Người ta có quyền suy luận ngược là vở kịch được trích
từ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Điều này có thể tin nếu chứng
minh được có thật Thanh Tâm Tài Nhân. Nhưng hiện nay không chứng minh được. Hơn
nữa trong tác phẩm chép tay này, cũng như trong thư mục đều không có ghi xuất xứ
là phóng tác từ trích đoạn của bất kỳ tác phẩm nào. Vả lại, cuốn Song Kỳ Mộng Truyện khuyết danh có nội
dung bổ sung cho truyện Vương Thuý Kiều.
Truyện này Kiều cũng chết tại sông Tiền Đường. (Sau này năm 1981, Đổng văn
Thành mạo nhận là Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân). Cuốn này lại được
Nhật ghi nhận là qua Nhật năm 1754. Nghĩa là sau 1707, do đó không đủ căn cứ
nói cuốn Song Kỳ Mộng có trước vở kịch
trên. Vậy đây là một vở kịch sáng tác độc lập với tên tác giả cụ thể: Diệp Trỉ
Phỉ.
Tiếp đến là đoạn cuối. Đối với các phóng tác xung
quanh truyện Kiều của Tàu, kết thúc luôn là cái chết của Kiều trên sông Tiền Đường.
Nhưng truyện Kiều của Nguyễn Du, Kiều không chết, tái
đoàn viên. Kết cấu này so với truyện thơ nôm Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự, cháu rễ
của Nguyễn Du thì thấy giống nhau. Cho nên tôi kết luận Nguyễn Du cũng được gợi
ý từ tác phẩm ở Việt Nam.
Tóm tắt lại, Nguyễn Du có mượn tên nhân vật của truyện
ngắn Vương Thuý Kiều và kịch Hổ Phách Chuỷ
là đủ tạo nên Truyện Kiều. Các nhân vật khác như Đạm Tiên, Thuý Vân, Kim Trọng,
Giác Duyên, Tam Hợp... hoàn toàn do ông hư cấu. Sự hư cấu tái đoàn viên của Kiều
là một chủ ý cho tiểu thuyết luận đề, chứ không như Đổng Văn Thành (Trung Quốc)
chê là vô lý!
Tôi lược truyện Hoa Tiên như sau:
Lương
Sinh lên kinh học tình cờ gặp Dương Dao Tiên. Hai người yêu nhau và thề ước.
Không ngờ ở nhà gia phụ Lương Sinh đã hứa tác thành chàng với Lưu Ngọc Khanh.
Khi về thăm nhà , Chàng mới biết, đau khổ nhưng vẫn nghe lời cha. Dương Giao
Tiên cũng đau khổ vì nghĩ Lương Sinh bội bạc.
Khi
Dương Tướng công (cha Dương Dao Tiên) ra trận bị giặc bao vây. Lương Sinh và một
người con cậu tên Diêu Sinh thi đậu làm quan. Tình cờ gặp lại Dao Tiên thì biết
cha nàng bị vây. Lương Sinh và Diêu Sinh xin vua cầm quân giải vây. Không ngờ
Lương Sinh thua trận lại cũng bị vây một thời gian dài.
May
nhờ Diêu sinh đánh tan được quân đối phương, giải vây cho Dương tướng công và
Lương sinh. Tất cả đều được nhà vua ban thưởng.
Trong
khi đó ở nhà Lưu Ngọc Khanh nghe đồn Lương Sinh đã tử trận. Nàng cử tang, nhưng
bị mẹ ép gã người khác nên nhảy sông tự vận. May nhờ thuyền Đốc học Long đang
tiến kinh vớt được và cứu sống.
Tưởng
rằng Lưu Ngọc Khanh đã mất, Lương sinh bèn dâng biểu tâu việc nàng tuẫn tiết,
được nhà vua ban sắc phong cho nàng. Nhà vua lại tự đứng ra làm mối gả Dương
Dao Tiên cho Lương sinh.
Đang
khi đó thì Đốc học Long cùng Lưu Ngọc Khanh cũng vừa đến kinh đô. Biết Lương
sinh đã có vợ, Ngọc Khanh nguyện đi tu. Nhờ Đốc học Long dâng sớ tâu việc lên
nhà vua. Nhà vua lại cho Ngọc Khanh kết duyên cùng Lương sinh.
Cuối
cùng, chẳng những Lương sinh cưới được Dương Dao Tiên, Lưu Ngọc Khanh; mà còn
cưới cả hai người con gái trước kia đã từng giúp mình đó là Vân Hương và Bích
Nguyệt. Thật là một nhà đoàn viên vui vẻ!
Trước khi có Truyện Kiều thì Hoa Tiên là truyện thơ Nôm
hay nhất. Nguyễn Huy Tự (1743-1790), tuy vai cháu rễ Nguyễn Du (1765- 1820),
nhưng lớn hơn Nguyễn Du 22 tuổi. Do đó khi Nguyễn Du niên thiếu đã đọc tiểu
thuyết của ông, một tiểu thuyết bằng thơ lục bát dài tương đương một nửa Truyện
Kiều. Đoạn kết của truyện Hoa Tiên đã gợi ý cho ông viết đoạn cuối truyện Kiều
sau này.
Sáng tạo của Nguyễn Du với kiến thức uyên bác, để hoàn
thành tiểu thuyết luận đề Đoạn Trường Tân Thanh ông đã mượn một chi tiết chính
sử được tiểu thuyết hoá: truyện Vương Thuý Kiều. Ông đặt truyện ngắn này làm đỉnh
điểm của thuyết tài mệnh tương đố. Ông mượn tên các nhân vật xung quanh nhà thổ
đưa đẩy Kiều lên đỉnh điểm tuyệt vọng, đành buông xuôi theo mệnh số ghi trong sổ
Đoạn Trường. Rồi ông đánh đổ thuyết này trên quan điểm Phật học bằng sự tái
đoàn viên. Về mặt cốt truyện, ông khai thác một kẻ hở của chính sử: một là,
chính sử không biết gia thế của Kiều nên ông toàn quyền hư cấu gia thế. Hai là,
chính sử ghi Kiều nhảy sông không vớt được xác. Nếu vớt được chôn cất, có khi
ông không thể chọn nhân vật Vương Thuý Kiều. Về hình thức hư cấu Kiều được vớt,
cứu sống là không gì bất hợp lý.
Truyện Hoa Tiên là bằng chứng quan trọng. Nguyễn Du mặc
dù thi tài của ông kết hợp được uyên bác của cổ thi với tinh tế của ca dao,
cũng không khỏi ảnh hưởng ngôn từ người đi trước. Các nhà nho tài tử khi diễn
thơ Kiều ra Kim Vân Kiều truyện cũng ảnh hưởng truyện Hoa Tiên và ca dao Việt
Nam nên mới lấy ý từ ca dao: "Thân em là tấm lụa đào. Phất phơ giữa chợ biết
vào tay ai" và đoạn mở đầu truyện Hoa Tiên để giảng nghĩa mở đầu truyện Kiều.
Nếu là văn nhân người Hoa thì không thể có việc này.
Ta thử so sánh đoạn mở đầu của cả 3 tác phẩm:
1. Hoa Tiên.
Trăm
năm một sợi chỉ hồng,
Buộc
người tài sắc vào trong khung trời.
Sự
đời thử ngẫm mà chơi,
Tình
duyên hai chữ với người hay sao?
Từng
nghe trăng gió duyên nào
Bể
sâu là nghĩa non cao là tình
Người
dung hạnh bậc tài danh
Nghìn
thu để một mốt tình làm gương.
2. Kiều
Trăm
năm trong cõi người ta
Chữ
tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải
qua một cuộc bể dâu
Những
điều trông thấy mà đau đớn lòng
Lạ
gì bỉ sắc tư phong
Trời
xanh quen thói má hồng đánh ghen
Cảo
thơm lần giở trước đèn
Phong
tình cổ lục còn truyền sử xanh.
3. Kim Vân Kiều truyện - TT tài tử
“Thân
em như vóc đại hồng. Vóc đại hồng kia có đường ngang đường dọc, mà đường ngang
bộ sách này tức là chữ tình, đường dọc bộ sách này tức là chữ khổ vậy.
Người
ta nhân cảnh ngộ mà sinh tình, vì gặp gỡ mà sinh khổ...”
So Hoa Tiên và Truyện Kiều thì Hoa Tiên ảnh hưởng lên
truyện Kiều cách đặt vấn đề và ngôn từ.
So Hoa Tiên với Kim Vân Kiều thì Kim Vân Kiều đã lấy ý
và lời của Hoa Tiên để giảng nghĩa đoạn mở đầu của Kiều. Người Hoa không thể
nào lấy ý của một tác phẩm Việt để mở đầu cho tác phẩm của mình được.
Bấy nhiêu phân tích sơ bộ tưởng cũng tạm đủ để chứng
minh rằng Kim Vân Kiều truyện tác giả là nhà nho tài tử người Việt rành tác phẩm
Việt hơn tác phẩm Trung Hoa.
Nếu bạn đọc đi sâu đối chiếu từng đoạn hai văn bản
Truyện Kiều và KVKT, các bạn sẽ chứng minh thêm rằng KVKT được ghép bởi bài viết
của nhiều nhà nho tài tử đã phân công viết từng hồi. Hệt những học trò bình giảng
thơ. Học trò kém chôm rất nhiều ý và lời của thơ Kiều để diễn giải. Học trò khá
không chôm thơ, diễn ý có phần sâu sắc. Cũng không loại trừ có một tài tử gốc
Minh Hương chen vào vài hồi. Ví dụ cảnh Kiều đền ân trả oán sặc mùi Hán tộc.
Chính vì vậy khi hợp cái kém lẫn cái khá, cái tâm lý
nhân vật Ta, Tàu lẫn lộn vào trong một cuốn, tuy rằng giúp hiểu rõ câu thơ,
thay cho phải chú thích điển tích, điển từ; nhưng tổng thể phải khập khiễng lôm
côm. Chính vì vậy các bậc tiền bối khó tính chê KVKT xoàng xĩnh! Nói theo ngôn
ngữ ngày nay : dỡ hơi, dỡ ẹc, dỡ như hạch...
Lê Nghị
13-10-19
(Còn tiếp: hậu Đoạn Trường Tân Thanh)