NHỮNG THÀNH NGỮ CÓ XUẤT XỨ TỪ THƠ CỔ
VÀ
ĐIỂN CỐ
(Phần III)
(7) Một đi không trở lại
Một đi không trở lại (一去不復返) [nhất
khứ bất phục phản] là thành ngữ nói lên sự mất mát vĩnh viễn, không thể tìm thấy
lại được và nó có xuất xứ từ bài Hoàng Hạc lâu (黃鶴樓) bất hủ
của nhà thơ Thôi Hiệu đời Đường. Nguyên tác:
昔人已乘黃鶴去,
此地空餘黃鶴樓。
黃鶴一去不復返,
白雲千載空悠悠。
晴川歷歷漢陽樹,
芳草萋萋鸚鵡洲。
日暮鄉關何處是,
煙波江上使人愁。
Phiên âm:
Tích nhân dĩ thừa hoàng
hạc khứ
Thử địa không dư Hoàng hạc lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Dịch nghĩa:
Người xưa đã cỡi hạc
vàng bay đi mất, chỉ còn trơ lại Lầu Hoàng hạc tại mảnh đất này. Hạc vàng một
đi không trở lại, ngàn năm mây trắng vẫn bay dằng dặc, hàng cây đất Hán Dương rực
rỡ bên dòng sông tạnh, cỏ thơm bãi Anh Vũ vẫn tốt tươi. Lúc trời chiều đứng trông
về làng cũ tự hỏi : Quê hương ở chốn nào ? Khói sóng mịt mờ trên sông nước Khiến
cho người nổi mối ưu sầu.
Dịch thơ:
Người xưa cưỡi hạc đã lên mây,
Lầu hạc còn suông với chốn này.
Một vắng hạc vàng xa lánh hẳn
Ngàn năm mây bạc vẩn vơ bay.
Vàng gieo bên Hán, ngàn cây hửng
Xanh ngắt châu Anh, lớp cỏ dày.
Trời tối quê nhà đâu tá nhỉ ?
Đầy sông khói sóng gợi niềm tây!
(Bản dịch: Ngô Tất Tố)
Nếu ta hiểu được bài
thơ trên thì ta thấy thành ngữ “Một đi không trở lại” không đơn thuần chỉ nói
lên sự lên sự mất mát vĩnh viễn, không thể tìm thấy lại được mà nó còn nói lên
tâm trạng cảm hoài trước quy luật của tạo vật là không có gì tồn tại vĩnh cửu.
Trong tiếng Việt, thành ngữ “một đi không trở lại” được
sử dụng rộng rãi hơn, đôi khi nó được dùng trong các “tít” báo theo cả nghĩa
đen. Chỉ cần bấm vào
google.com trong vòng 0,17 giây cho ra 710. 000 kết quả; chẳng hạn “Tại sao du
khách nước ngoài đến Việt Nam một đi không trở lại”, nói về sự làm ăn chộp giật
của ngành du lịch nước ta.
(8) Thanh mai trúc mã
Thanh mai trúc mã (青梅竹马) (thanh mai: mai xanh,
trúc mã: ngựa trúc),
thành ngữ này dùng để chỉ sự đẹp đôi hoặc duyên nợ lứa đôi
và nó có nguồn gốc từ bài thơ Trường Can hành (長干行) của Lý
Bạch. Bài thơ có 30 câu, có thể nói là một thiên diễm tình.
Nguyên văn:
Phiên âm:
Thiếp phát sơ phú ngạch
Chiết hoa môn tiền kịch
Lang kỵ trúc mã lai
Nhiễu sàng lộng thanh mai
Đồng cư Trường Can lý
Lưỡng tiểu vô hiềm sai
Thập tứ vi quân phụ
Tu nhan vị thường khai
Đê đầu hướng ám bích
Thiên hoán bất nhất hồi
Thập ngũ thuỷ triển mi
Nguyện đồng trần dữ hôi
Thường tồn bão trụ tín
Khởi thướng Vọng Phu đài
Thập lục quân viễn hành
Cù Đường, Diễm Dự đôi
Ngũ nguyệt bất khả xúc
Viên thanh thiên thượng ai
Môn tiền trì hành tích
Nhất nhất sinh lục đài
Đài thâm bất năng tảo
Lạc diệp thu phong tảo
Bát nguyệt hồ điệp hoàng
Song phi tây viên thảo
Cảm thử thương thiếp tâm
Toạ sầu hồng nhan lão
Tảo vãn há Tam Ba
Dự tương thư báo gia
Tương nghênh bất đạo viễn
Trực chí Trường Phong Sa
Dịch nghĩa:
Khi tóc vừa
buông trán, hái hoa trước cổng chơi. Chàng cưỡi ngựa tre đến, quanh giường
tung trái mai. Trường Can cùng chung xóm, cả hai đều thơ ngây. Mười bốn, về làm
vợ, thiếp còn e lệ hoài. Cúi đầu vào vách tối, Gọi mãi, chẳng buồn quay. Mười
lăm, mới hết thẹn, Thề cát bụi không rời. Bền vững lòng son sắt, há lên Vọng
phu đài. Mười sáu, chàng đi xa, Cù Đường, Diễm Dự đôi. Tháng năm không đến được,
Vượn buồn kêu trên trời. Trước cổng vết chân cũ, rêu xanh mọc um tùm. Rêu nhiều
không quét hết, Gió thổi, lá vàng rơi. Tháng tám bươm bướm vàng, trên cỏ vườn
bay đôi. Cảnh ấy đau lòng thiếp, Má hồng buồn phôi pha. Khi chàng xuống Tam Ba,
nhớ gởi thư về nhà. Thiếp sẽ mau đi đón, Đến thẳng Trường Phong Sa.
Dịch thơ:
XÓM TRƯỜNG
CAN
Tóc em vừa chấm bờ vai
Bẻ hoa dưới ánh ban mai trước nhà
Chàng từ cưỡi ngựa trúc qua
Nghịch đùa tung quả mơ hoa quanh giường.
Trường Can cùng ngụ lân hương
Hai ta đâu biết vấn vương là gì !
Mười bốn em bước vu quy
Về bên chàng có biết chi là tình
Nên thường cúi mặt lặng thinh
Mặc cho chàng gọi trăm nghìn không quay
Mười lăm rạng rỡ mày ngài
Nguyện cùng chàng hết trần ai tro tàn
Lòng tin ôm cột giữ giàng
Thì đâu em phải lên đàng vọng phu ?
Muời sáu chàng bước viễn du
Cù Đường, Diễm Dự mịt mù xa khơi
Tháng năm không thể đến nơi
Vượn buồn hót thảm bên trời bi ai
Trước sân còn đậm dấu hài
Nay rêu kín phủ đơn sai mấy lần
Rêu dày không quét được sân
Lá thu theo gió trải ngần thềm xưa
Tháng tám bướm dập dìu đưa
Phía tây vườn cỏ cho vừa nhớ thương
Cảnh vui lòng luống đọan trường
Đếm từng ngày tháng phấn hương phai nhòa
Bao giờ chàng đến Tam Ba
Nhớ thư tin báo về nhà đợi mong.
Đón chàng đâu ngại núi sông
Nguyện vì nhau, mặc Trường Phong ...dãi dầu.
(Bản dịch của Đào Thái Sơn)
Như vậy có thể thấy, cả bài thơ
của Lý Bạch tả mối tình thơ ngây của chàng trai và cô gái, hai người cùng ngụ
trong xóm Trường Can, thuở nhỏ luôn luôn nô đùa quấn quít cùng nhau, bằng hai
câu thơ: “Lang kị trúc mã lai. Nhiễu sàng lộng thanh mai.” (Chàng cưỡi ngựa tre đến, quanh giường đùa với trái
mai xanh). Do đó, nói: “trúc mai” là chỉ tình yêu thắm thiết của một
đôi trai gái.
Theo cách giải thích của học giả An
Chi trên báo Sài gòn giải phóng online thì có khác đôi chút. Chẳng
hạn: “Trúc mã” ở đây là gậy tre mà trẻ con lấy giả làm ngựa để cưỡi chứ không
phải “ngựa tre”, sàng” là ghế chứ không phải là giường.
……………….
(còn nữa)
Ts Nguyễn Ngọc Kiên