DƯỚI CÁNH BAY ĐÊM
Bút ký
CHẾ CẨM ĐÌNH
Người Ê Đê sống bên bờ sông
Người Mơ Nông ở bên bờ suối
(st)
Tôi lại phải rời Ban Mê về Sài Gòn
sau mấy ngày lặn lội khắp vùng đất yêu thương ấy. Dưới cánh bay đêm xa kia lập
lòe những đốm sáng của ánh đèn điện đã vào tận mỗi buôn làng, ngồi trên cao
nhìn xuống tôi hãy còn sững sờ tiếc nuối. Là vì, chỉ được có ba ngày ngắn ngủi,
dù đã ngược xuôi khắp nơi từ Quỳnh Ngọc đến Kim Châu thuộc huyện mới Cư Quin, từ
Eaka lên Krong Pak, lại Krong Ana sang Buôn Hồ, rồi đi Ea H'leo, đi qua
Pandrang, băng về Ea Sup, mà còn chưa thỏa lòng trầm mình trong từng cơn gió đại
ngàn thổi rạt rào hơi man mát, báo hiệu những ngày nắng trơ gốc cà của mùa khô
sắp sửa đi qua.
Rừng cao su lấp lánh hằng sa số
cánh bướm vàng mơ bay dập dờn sau mỗi làn gió thốc nhẹ. Ngang qua rẫy, những
chú ong rằn nâu bằng ngón tay út giật lên giật xuống trên mấy tàng hoa nở muộn
của chọm cây chôm chôm rừng. Màu trời vẫn xanh ngăn ngắt trên vài vạt rừng già
còn sót lại, nhưng đã loáng thoáng xuất hiện những bồng mây trắng trôi có vẻ vội
vàng, như để kịp kéo hơi nước lên làm mưa cuối tiết tháng tư.
Mùa này, bơ sắp vào vụ hái. Bơ sáp,
bơ lóng, rồi cả bơ ghép, bơ lai được trồng khắp nơi thi nhau dậy mùa, từng quả
từng quả sai dày lúc lĩu trên cành, chờ đôi tuần nữa sẽ được hái xuống gùi từng
gùi đóng xe gửi về xuôi. Kèm đó, những sọt mít ken đầy như nhốt đàn lợn choai
béo ú, thêm những gùi mãng cầu gai với sầu riêng chớm vụ cũng đóng khạp theo về.
Qua buôn Ê Đê, gặp anh Eniek, nghe
nói tiếng chào "Hưn kơ găp thâo, anei lĕ ama kâo". Gặp chị H’Maryam
Niê giơ cả chùm ngón tay dạy tôi học đếm "sa, duo, clo, pak, ma, năm,
chuc" mới biết ngày xưa người Ê Đê chỉ dùng hệ số thất phân, nên đến số
tám nói lặp lại là "sa păn", rồi
số chín là "duo păn" và số mười là "pluk".
Cũng lần hồi tìm người M'nông tận
Dakmâm giữa núi rừng Krongno, họ ở lẫn người Kinh với người Ê Đê một cách hòa
thuận. Tuy vậy, họ vẫn giữ riêng bản sắc và tiếng nói gốc Khơ Me của mình, chứ
không nói tiếng Nam Đảo như tôi vẫn tưởng. Nghe nói dưới Đak Min, Dak Song còn
có nhiều buôn M'nông sinh sống hơn, chắc bận sau phải lần qua thăm cho thỏa
lòng khám phá. Còn phải ghé qua Nam Nung, Nam Dong thăm bản người Tày, người
Nùng, chắp tay nói "sabaidee" với các "noọng ngam" vận y phục
có diềm ngũ sắc rất đẹp để làm quen. Ánh đèn dưới xa kia chắc hắt lên từ các
ngôi nhà sàn trong bản Thái, mạn từ Krong Pak đổ qua tận đường dây 500kv trên
đường ra Cư Jut. Những bà con người Thái tận ngoài Thanh, Tuyên chuyển vào từ
năm tám mấy, nay vẫn còn đếm "nừng, xóng, xám" để tính tiền với khách
mua cà, mua ngô. Ở đó, lại có cả làng người Vân Kiều, di cư từ phía Tây Quảng
Trị tới ở đây tự lâu lắm rồi, tận hồi trước bảy lăm, mà không biết có còn giữ tục
đi sim của con trai con gái tuổi dậy thì hò hẹn cùng nhau ngoài rừng cả đêm để
tự tình.
Vạch màn đêm từ trên cao, thật khó
đoán định được phương hướng, chừng tôi có thể đoán sai nơi, thì cũng không sao
cả, bởi bạt ngàn bên dưới đâu đâu cũng có đồng bào tôi sinh sống. Nên có khi đó
là bản người Lào ở buôn Đôn, có "phù nhin", "phù xao" đang
tắm cho voi dưới làn suối mát sau một ngày cùng nhau lao động nhọc nhằn kiếm sống.
Biết chừng, đó là những làng người Raglai bên ngọn Phượng Hoàng cánh M'drak đổ
về Dục Mỹ thuộc Khánh Hòa. Nơi đó đang có những sơn nữ ngồi xem các chàng trai
của mình đang tụ tập học chơi đàn Chapi từ các già làng để tiếp nối việc giữ hồn
đại ngàn. Tôi tự nghe trong thâm tưởng mình từng tiếng nhạc trầm đục vang lên từ
những sợi dây đàn Chapi bằng cật tre khi khảy, mà bất giác thì thầm lời bài hát
của nhạc sĩ Trần Tiến "khi rung lên, từng sợi dây, đàn đã đong đầy, hồn
người Raglai..."
6/2016
Chế Cẩm Đình