Hiệp Biện Đại Học Sĩ Trần Đình Túc |
Linh Đàn kính giới thiệu:
TỰ SỰ
Thơ Lục Bát nguyên tác Chữ Nôm
Thơ Lục Bát nguyên tác Chữ Nôm
Nay mừng Năm cũ đã qua
Thung dung mới kể Nôm na vài
lời
Đã sinh ra đứng làm trai
Ở sao cho xứng những lời dạy
khuyên
Tam xuân tất cả chưa đền
Mười ân đã mất ba nguyền lại
vương
Tình kia hiếu nọ đôi đường
Ơn bằng trời đất nghĩa dường
núi sông
Tội riêng như đá chất chồng
Niềm chung nghĩ đến hãi hung
xiết bao
Thung đường tuổi hạc càng cao
Mười đời trâm hốt (a) quang
hào hiển vinh
Đôi phen trọng trấn Long
Thành (Hà Nội)
Nhờ ơn Chín Bệ (b) thỏa tình
bốn phương
Thỉnh hữu lũy sớ liên chương
Chín Tầng (b) trên cũng rộng
thương Tôi già
Từ Thành thị, giã phồn hoa
Tạ Nùng Sơn, biệt Nhị Hà lui
xe
Từ đây gió huệ đưa che
Làng nhà hơn tháng phút về
đến nơi
Người tiếp rước kẻ khuyên mời
Những câu thanh cát những lời
hàn huyên
Tiệc nầy thân thích dưới trên
Chỉ Xuân Kinh (c) lại tách
miền xa xăm
Đồng liêu tay bắt tay cầm
Chen vai hàng lệ sang sân lạy
quỳ
Chờ cho muôn đội hàng uy
Tăng gia phẩm cấp sử ghi
tiếng vàng
Cát nhân thiên tướng Ngự ban
Nóc mưu đầu đội thanh nhàn
chân lui
Bàn Môn cây cỏ đua tươi
Trăng Hương Bình gió Ứng Đôi
đón chào
Mừng mừng rở rở xinh sao
Chắt reo trong dánh, cháu
chào ngoài sân
Thảnh thơi bỏ lúc phong trần
Vườn Xuân một thuở - bản Xuân
muôn ngày
Cầm đàn cầm độ đưa tay
Tiệc vui Thôn Ấp, lộc đầy
đỉnh chung
“Một đời được mấy anh hùng”
Kìa nhà Bùi Độ (d) - nọ cung
Hàn Kỳ (e)
Nền văn học món cầm thi
Trước so Văn Cử (f)- sau bì
Tạ An (g)
Cổ nhân vầy tiệc truy hoan
Đàn thông phách suối tơ vàng
thảnh thơi
Công tu cùng nặng hai vai
Anh khen em hiểu em thời anh
trung
Bút nghiên về với xóm làng
Sớm hôm cần mẫn điểm trang
ruộng đồng
Bạn bè cùng với lão nông
Đào sông ngăn đập thỏa lòng
bấy nay
Dạy con cháu - nhắc tớ đầy
Đứa chèn hói nọ, đứa cày
ruộng kia
Tiếng chim thánh thót quanh
hè
Cá tung tăng nhảy dưới khe
lững lờ
La Ông lụm cụm chào thưa (Ông
Lão Họ La trong làng)
Ruộng xưa ta đắp bây giờ đã
nên
Hơn năm trăm mẫu thành điền
Công dân mọn mọn, nhờ quyền
cao cao
Xin dâng dưỡng lão chốn nào
Kẻo lòng trên dưới ước ao
những ngày
Biết tình cố cựu xưa nay
Ơn Vua ban cấp lộc đầy chung
thân (h)
Chi phiền của lính công dân
Lãnh phần ruộng ấy xin dâng
lại Làng.
Hội Xuân mát mẻ vừa sang
Trúc reo tiếng hát đào ran
giọng cười
Nước Hương Bình vẫn trôi xuôi
Cá tôm luống những đượm mùi
quê hương
Tóc râu ngoài độ điểm sương
Phơ phơ đầu bạc sắp sang bát
tuần
Hỏi ai còn mấy mùa xuân
Hỏi duyên kỳ ngộ Châu Trần
mấy khi
Lao nhân trời đã dành chia
Ngữa nghiêng với sách mệt mề
theo bông
Duyên cá nước - hội mây rồng
Phút đâu lại thấy tơ lòng dục
đôn (i)
Một lời dặn khắp cháu con
Guốc tre gác lại cửa son bước
vào (k)
Quên mình ra vẻ trâm đào
Ngập ngừng bước thấp bước cao
lạy quỳ
Lệnh truyền đâu dám suy bì
Bắc Nam là phận
truy tùy đã quen
ChínTầng đã nhớ đến tên
Một lòng xin quyết muôn
truyền họa may
Hỏa cơ thuyền khói xa bay
Theo chân một trẻ vài ngày
đến nơi
Công đường gươm dáo sáng ngời
Bốn phương súng đạn một trời
lầm than
Cờ Đen Vỉnh Phúc kéo sang (l)
Áo ào gió thổi bụi đường
chiến chinh
Thương thay vận nước dân mình
Đông Tây hai ngả hảm thành
Thăng Long
Đòi phen lưỡng Hổ tranh hùng
Thứ dân vô tội, Hoàng ung rối
bời
Triều Thần còn chỉ một hai
Phụng vâng Chiếu, đơn sai đàm
nào
Nghĩ mình Khâm mạng trời cao
Trong cơn nước lửa liệu sao
vuông tròn
Thương người lòng dạ sắt son
Cổ thành tuẩn tiết sữ còn lưu
danh
Luân hồi sanh tử tử sanh
Phận mình đâu trót dân tình
sao đây?
Quân Tàu hạ sát tướng Tây
Trên Ô Cầu Giấy máu đầ thịt
phơi (l)
Một mình chống chọi đôi nơi
Là đem dân chúng chôn vùi
thảm thê
Thiệt hơn phải chịu một bề
Cửu trùng đã có châu phê nghị
hòa
Nước nhà khỏi bước phong ba
Thanh bình cho đỡ phiền hà lê
dân
Bắc Hà giao lại quan quân
Kinh kỳ trở gót, trước sân lạy quỳ
Vua ban “Xữ thế tùy nghi”
Lão lai tài tận xin về cố
hương
Hồ Sơn ngào ngạt đua hương
Sữ xanh ghi lại mấy chương
tâm tình
Nợ nần từ buổi thư sinh
Trân cam từ buổi tóc xanh đã
từng
Đỉnh chung đâu dám phụ lòng
Điền viên ui thú Ngư Ông
tháng ngày
Rôi đây thế cuộc vần xoay
Một lòng chung thủy dở hay
khôn lường
Đời người có lúc sang trang
Chuyện đời còn mãi rõ ràng
trước sau
Dặn dò con cháu đôi câu
Hiếu trung tiết hạnh khắc sâu
trong lòng./.
TRẦN ĐÌNH TÚC
Ghi chú:
a) Trâm Hốt = Cái
trâm cài đầu, và cái hốt câm tay, người quyền quý, - ngày xưa thi đậu tiến
sĩ hay làm đến Dường quan mới có trâm
hốt (Hán Việt Từ Diển - Đào Duy Anh)
b) Chín bệ, chín tầng = Cửu
Trùng là vua
c) Xuân Kinh = Kinh
Thành Phú Xuân = là Huế.
d) Bùi Độ (765-839) tự Trung
Lập, người Văn Hy, Hà Đông (nay thuộc tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc). Đỗ tiến sĩ năm
Trinh Nguyên, được bổ làm Giám sát ngự sử, sau được thăng làm Ngự sử trung thừa
rồi làm đến chức Tể tướng. Năm Nguyên Hoà thứ 12 (817), Ngô Nguyên Tế chiếm giữ
Thái Châu (Hoài Tây) nổi loạn chống triều đình. Tháng bảy, ông được phong làm
Hoài Tây tuyên uý chiêu thảo sứ đi đánh dẹp. Sau khi dẹp được loạn, ông được
phong tước Tấn quốc công, về sau hoạn quan chuyên quyền, ông từ quan về ở Lạc
Dương. Khi mất, ông được phong thuỵ là Văn Trung. Trong "Toàn Đường
thi" hiện còn mười tám bài thơ của ông.
e) + f) chưa tim ra điển tích
(g) Vương Thản Chi Tạ An =
Đời Tấn (265-420) là một nhà thế phiệt trâm anh, lúc thư nhàn thường hay chở
rượu đến Đông Sơn cùng các kỵ nữ hòa
nhạc vui chơi, lúc hưng thịnh chim én về làm tổ đầy nhà, lúc suy vong chim én
bay đi hết, để phân biệt người sang kẻ hèn Vương, Tạ thường mặc áo đen, nên
người đời nói cửa ngỏ của Vương, Tạ là "Ô -Y hạng"=là hẻm áo đen, sau
nầy có bài thơ Ô -Y - Hạng của Lưu Vũ Tích
Chu Tước kiều biên dã thảo
hoa,
Ô Y hạng khẩu tịch dương tà.
Cựu thời Vương Tạ đường tiền
yến,
Phi nhập tầm thường bách tính
gia.
h) Cấp ruộng đất để làm hưu
bổng đến hết đời. nhưng rộng đất ấy Ông đem chia cho dân làng.
i) Dục Đôn = Tiếng Việt cổ
=cõi lòng thấy thúc dục, và đôn đốc hối hả.
k) Đoạn nầy tác giả tả lúc
hồi hưu ở Bàn Môn, tỉnh Thừa Thiên, nhưng vua triệu hồi nhân lệnh mới
L) Lưu Vĩnh Phúc theo Bách
Khoa Toàn Thư (Xin bấm vào tên có liên kết để đọc thêm về Lưu vĩnh Phúc)