Một chiều cuối tuần, tôi ngồi nghe
chuông gió mắt nhìn tia nắng nhạt cuối
trời. Lòng bỗng nhớ quê da diết, nhớ dòng sông, nhớ cánh đồng, nhớ con đò ngang, nhớ bụi tre già đầu ngõ...Ôi nhớ....Nỗi nhớ đã khiến tôi vào trang web lần tìm… chợt một chùm hoa
sầu đông tím đập
vào mắt tôi. Chao ơi!
Tôi đã chiêm ngắm trong
nỗi xúc động nghẹn ngào, cảm ơn người
biên tập đã minh họa chùm
sầu đông với những cành hoa li ti tim tím nhớ lên trang Web. Lâu lắm rồi tôi chưa gặp lại loài hoa nầy, chỉ là những
hình dung trong trí nhớ. Bây chừ cành hoa đó như
lay động trong tôi, dù chỉ là một hình ảnh không
nắm bắt được.
Ôi hồn quê! Với người Quảng Trị tha hương
chúng ta là như thế
đó, đâu cần gì nhiều, đôi lúc chỉ là một bài viết ngắn, một tấm ảnh đơn sơ hoặc một giọng à ơi quen thuộc cũng đủ làm xao động nỗi tư cố hương.
Ôi hương
sầu đông! Hương quê nhà
Quảng Trị sao cứ
tím mãi trong tôi dù đã bao năm lìa xa quê cũ.
Quảng Trị quê ta không chỉ là vùng
đất khô cằn cày lên sỏi đá, không chỉ đau buồn tủi phận trong câu
ca Mùa đông thiếu áo, hè thời thiếu ăn... mà còn lắm niềm tự hào không nơi
nào có. Ai đã từng về bên sông Thạch Hãn soi bóng nước
để nhớ một thời đường Gia Long lộng gió? Ai đã từng
ngậm ngùi bước trên phố xưa
để mơ
về Nguyễn Hoàng của một thời áo trắng? Ai ra Đông Hà rẽ về Cửa Tùng, Cửa
Việt? Ai về Bích La ngắm bóng chiều trên ngã
ba sông nhớ ghé thăm cô hàng bán Nem lụi ở chợ Sãi, ai về Hải Lăng
không chỉ mồ chen cát trắng mà còn cả những đồi sim tím cả rừng
chiều, rồi dòng Vĩnh Định Giang hiền hòa
đưa nước
ngọt và phù sa cho những xóm làng yên ả. Ôi ngày xưa...Ngày xưa vẫn sống mãi dù bây chừ
đã thành ruộng lúa bể dâu. Những
gợi nhớ
ấy phải chăng là hương quá khứ còn đọng mãi với
thời gian, phảng phất đâu đây trong tâm hồn người
viễn xứ?
Nói về hương
quá khứ thì trong tôi luôn đầy ắp những hương
quê. Nào là hương lúa
đồng nội, hương
cau bên thềm, hương
giàn thiên lý đầu hè, hương
đồi sim tím … cơ
man làm sao kể xiết. Nhưng với tôi, có
lẽ mùi hương sầu đông
là ấn tượng nhất, bởi vì suốt một thời thơ
ấu tôi đã đếm tuổi không chỉ khi hoa mai nở
mà cả mùi hương sầu
đông thoang thoảng báo tin mỗi độ xuân về. Còn bao
năm qua, những miền đất tôi đến, tôi đi ...chưa hề được
thấy những chùm hoa tím dịu dàng đó, để hôm nay
tôi bất ngờ ngộ cố tri trong niềm thương lặng
lẽ.
***
Tôi vốn sinh ra trong một xóm nhỏ mang tên Bắc Tả của làng Lam Thủy, có rặng tre già bao bọc xóm thôn, có
cánh đồng rộng cho bầy cò sải cánh bên dòng sông Vĩnh Định lặng lờ trôi theo năm tháng. Tôi là con gái của dòng Nguyễn Ngọc, đa số những
ngôi nhà của cái xóm Tả nhỏ bé thuộc về họ tộc này. Như một thông lệ, cứ sinh ra con trai thì đặt tên là
Nguyễn Ngọc … chi đó, còn con gái nếu muốn đặt thêm chữ đệm thì dứt khoát
phải là Nguyễn Thị Ngọc … chi
đó. Chỉ có nhà tôi là phá lệ, ba tôi không dùng chữ Ngọc làm tên đệm cho chị em chúng tôi mà lại là An Lành,
Liên Hưng, Vĩnh
Phước. Bởi
thế mà khi vào học trường tiểu học Lam Thuỷ, gặp lớp ông anh họ thuộc dòng Nguyễn Ngọc dạy, tôi bị anh la cho một trận vì cái tội “tự ý
sửa tên, Ngọc Hưng
sao viết thành Liên Hưng?”
vì thuở đó có những đứa con gái
khi ở nhà mang tên
Chút, Chít, Nậy … khi đi học tự ý
ghi tên vào nhãn vở
là Hoa, Lan, Huệ … cho đẹp. Bị mắng oan tôi về khóc với ba, thứ nhất là mất chữ Ngọc, thứ hai là bị lũ con trai trong lớp trêu ghẹo rằng con gái mà mang tên Hưng
của tụi hắn và “xin ba sửa
tên lại cho con”. Không những
ba tôi không sửa mà
còn phán một câu rằng ông đã lục hết sách vở
mới
tìm được cái tên vừa
ý để đặt cho tôi,
sao đổi được.
Thấy tôi còn tấm tức, ông bèn giải
nghĩa cho tôi Liên là gì, Hưng
là gì, ông đặt tên cho tôi như thế là kỳ vọng vào tôi điều
gì v.v và v.v… Thế là tôi sáng mắt sáng lòng nhận cái tên cha mẹ cho một cách vui vẻ, về sau có ai
thắc mắc con gái mà tên kỳ cục tôi lại hãnh diện giải thích chữ
nghĩa y như kiểu ba tôi đã phân tích cho tôi từ thuở
nhỏ. Sau này khi lớn lên, tôi càng thích cái tên đó hơn vì nó không hề bị trùng lặp. Khi bị ai đó gọi nhầm tên, tôi thường đính chính “Dạ, tên em không có ơ ạ!”.
Ngôi nhà của gia đình tôi là
một căn nhà gạch ba gian, nhà ăn nhà bếp nằm ngang phía dưới
nối liền với nhà trên như hầu hết các căn nhà trong
xóm. Mẹ tôi kể lại rằng gạch để xây căn nhà này là thu lượm
lại của khu nhà lầu cũ, đó là một cơ ngơi khá lớn tọa lạc giữa khu vườn mênh mông. Mẹ tôi thường
kể rằng khi mới về làm dâu, bà có lần đi lạc trong khu
vườn đó. Từng dãy nhà ngang dọc con cháu, người làm … ai
đâu ở đó, còn căn nhà
chính để thờ gia tiên và nơi
ông nội tôi ở
thì khi có lệnh con cháu mới được vào. Khi chiến tranh
xãy ra, giặc Tây đã lấy ngôi nhà để làm bản doanh. Khi rút đi, chúng lại bắt dân làng gánh rơm
rạ chất đầy để đốt nhà. Hoà bình lập lại,
ba mẹ tôi về, nhặt nhạnh từng
viên gạch rơi
vãi còn sót lại để xây nhà mới cho gia
đình. Khi tôi chào đời thì không còn tiếng súng, tôi đã lớn
lên trong căn nhà được
xây lại từ tro tàn năm cũ bên cạnh những
người thân. Ba tôi bận công tác xã hội trên quận, trên tỉnh cả ngày, chiều tối mới
đạp xe về nhà. Mẹ tôi vẫn
lam lũ một nắng hai sương với ruộng vườn để lo cho chồng con có miếng cơm tấm áo.
Trong vườn, ba tôi trồng đủ loại cây ăn quả, những
cây quýt đầy trái căng tròn mọng nước,
những trái mãng cầu chín khoe mắt nhung đen vì bị lũ chim ăn vụng, những
quả thanh yên xanh xanh dòn rụm … hai hàng cau
thẳng tắp luôn có bầy chim non
ríu rít. Đầu hiên nhà, dưới giàn thiên lý là những cụm hoa mộc, hoa sói bên
hòn non bộ có những tiên ông, tiên cô như từ trong cổ tích bước
ra, vườn hoa từ đầu hè kéo dài ra tận ngõ, ba
tôi lại trồng lắm thứ,
nào hoa cúc vàng, hoa thược
dược, phụng tiên, huệ trắng, mai vàng, mai đỏ, những
cụm mẫu đơn khoe sắc,
những cánh dành dành trắng nuốt thơm nức mà sau này tôi mới biết đó là một trong những
loài hoa mang họ trà mi vương
giả, rồi hải đường, phù dung… cây tường vi vươn
mình đưa những
chùm hoa hồng tím ra tận bụi trúc bên bờ ao, cả những loại cây ít người trồng như hổ vỹ, cây quỳnh,
cành giao …. cũng được
bàn tay của ba mẹ tôi cùng nâng niu, chăm sóc. Bởi vậy nên vườn
nhà tôi lúc nào cũng rập rờn bướm lượn đủ màu.
Phía bìa sân, ngoài những cọng hoàng anh khoe sắc vàng tươi quanh năm, nhà tôi cũng có rặng chè tàu cắt xén và những hàng sầu đông như
bao ngôi nhà khác ở
trong xóm. Khi xuân sang, những chùm hoa sầu đông tim tím với những
cánh mỏng manh bé xíu
đưa mùi hương thoang thoảng không lẫn
được với
mùi hoa nào nhất là vào đêm trăng sáng, những chùm hoa lấp loáng dưới ánh trăng lay động trong sương đêm gợi cho trí óc nhỏ nhoi của
chúng tôi những chuyện huyễn hoặc thần tiên trong cổ tích. Hè
đến, những cánh hoa tím lại rắc đầy sân để nhường chổ cho những chùm
trái non mơn mởn đong đưa trong gió nhẹ, chúng tôi
hái trái để chơi
ô làng. Trái sầu đông đầy
cây bát ngát thế mà bị thua vài trái
có khi tôi cũng chảy nước mắt vì tiếc. Rồi
mùa thu về, những trái sầu vàng xuộm rụng đầy trên lối đi. Chúng tôi nhặt trái,
ghé răng nhăn nhăn vào trái chín để thưởng thức cái vị
vừa
ngòn ngọt, vừa chát chát lại vừa đăng đắng một cách thú
vị nhưng không dám ăn
nhiều, say chết. Rồi mùa đông đến, những cành cây khẳng khiu không
chiếc lá, trơ xương đón những
luồng gió rét, nghiêng ngã dưới mưa
dầm để chờ gió xuân cho một chu kỳ tiếp
nối. Có lần, người ông đồng hàng ông nội tôi
chống gậy đến nhà chơi, ông nhìn hàng sầu đông
trước ngõ và cất cao giọng ngâm
rằng “Sầu đâu đưa
tới
em hoài. Sầu trong chưa
giải, sầu ngoài đưa vô" rồi bảo ba tôi hãy đốn hàng sầu
đông đi, trước nhà mà trồng cây sầu là không tốt. (Ở Quảng Trị, cây sầu đông
thường gọi tên là sầu đâu). Rất may ba tôi không nghe theo lời
ông, do đó tuổi thơ
của tôi được lớn
dần theo dãy sầu đông trước ngõ.
Bên góc sân cạnh nhà bếp, có một cây sầu đông to bằng cột đình, những
tán lá cao như muốn vươn tới khoảng
không gian bao la vô tận. Tuổi thơ tôi đã trôi qua êm đềm bên
gốc sầu đông già đó. Dưới bóng mát tàng cây, tôi và thằng bạn cùng xóm đã bày đủ các trò
chơi, kể cả trò chơi gia đình. Chúng tôi lấy lá chuối tươi xé nhỏ ra rồi túm lại cột thêm vào chùm tóc như cái đuôi gà dài, hắn
trèo lên cây bẻ chùm hoa sầu đông cho tôi ôm trên tay
làm cô dâu rồi khoác tay nhau đi đi lại lại
một cách nghiêm trang. Sau đó chui vào nhà (được hai đứa dựng bằng cây sắn, cành sầu
đông và lợp lá chuối
tươi, các kèo cột được
nối với nhau bằng dây chuối khô) rồi
cùng hô lớn “trời
tối rồi” thế là nằm ngay đơ,
giả bộ ngáy khò khò như người đang ngủ. Một lát hắn lại giả tiếng gà gáy “ò ó o” và chúng tôi vội vàng trỗi
dậy vì trời đã sáng. Bắt chước người lớn, hắn giả bộ cuốc đất, trồng cây bên cạnh
bụi chuối (cuốc được
làm bằng cây sắn còn nguyên gốc) còn tôi thì lo giữ
con, tôi bỏ con là
chiếc bẹ chuối cắt thành hình người
vào cái võng cũng bằng bẹ chuối ru hời
những câu “Mẹ thương con ra cầu Ái Tử. Vợ trông chồng lên núi Vọng Phu” hay “Chàng ơi phụ thiếp làm chi. Thiếp
là cơm nguội để khi đói lòng”, v.v… Chao ơi là những
câu hát ru của quê hương, tôi đã nghe và hình như đã thuộc làu từ cái thuở
nằm nôi. Có khi tôi lại bắt một chú chó
con để làm con. Tôi bế nó đi quanh
sân, cất tiếng ru, cho nó ăn và …
đè ra đánh đít nó, miệng hỏi “trừa chưa,
trừa chưa”
làm nó kêu ăng ẳng rồi vùng chạy thoát.
“Ôi ngày thơ!
Tình thơ!
Mất về đâu tuổi dại…”
Bạn nhỏ ngày xưa
ơi! Có lẽ bạn không nhớ đâu,
nhưng với
tôi sao những kỷ niệm cái thuở bốn, năm tuổi ấy cứ mãi nằm trong tiềm thức. Mỗi lần hoài niệm quê hương, hình ảnh ngày xưa lại hiện ra rõ mồm một. Êm đềm quá! Thơ mộng quá! Phải chăng đó
là một trong những ngăn ký ức đẹp nhất của một đời người?
Ngày xưa
ơi !
Khi làng quê không còn yên ả với
tiếng chày giã gạo đêm trăng, với
mái chèo khua dòng nước
trong xanh hiền hoà trên con sông nhỏ, gia đình
tôi đến ngụ cư
tại làng Thạch Hãn. Ba tôi vẫn trồng hàng sầu đông trước
ngõ để tưởng
nhớ quê nhà. Ngôi trường Nguyễn Hoàng tôi học vẫn có
sầu đông chen lẫn với hàng dương,
tán phượng. Con đường
từ
nhà đến trường ngoài luỹ tre già lả ngọn vẫn thoảng mùi hương
nhè nhẹ của hoa sầu đông mỗi độ xuân về.
Và thế... Mầu hoa man mác đó đã theo tôi suốt cả thời thơ
dại, thổi vào hồn tôi niềm say mê, mơ mộng bay bổng như những
cánh chim trời.
Rồi một ngày tôi lặng lẽ rời quê, bỏ lại sau lưng
rặng tre già và hàng sầu đông vừa
thay lá. Lời ca Thuyền Viễn Xứ người bạn học hát tặng tôi trong buổi chia tay cứ vang mãi bên tai làm tôi khóc lặng lẽ
suốt cả chặng đường
dài. Năm tháng trôi qua, những nơi
tôi đến - tôi đi, mỏi
mắt tìm kiếm cũng không bao giờ gặp lại loài hoa
năm cũ. Một đôi lần trở lại quê xưa, ngang qua nhà ai có hàng
sầu đông trước ngõ tôi lại đứng lặng thẩn thờ,
bồi hồi như nghe mùi hương thoang thoảng đâu đây dù
tiết mùa đã cuối hạ hay sang thu.
***
Hương
sầu đông. Hương quê nhà
của tôi. Xin góp một vài
dòng chữ nhỏ như
những cánh li ti của một loài hoa
không hề được
trọng vọng, tôn sùng, một loài hoa dân dã
nơi làng quê Quảng Trị. Loài hoa gợi nhớ cho một miền ký ức êm đềm bên dòng sông Vĩnh Định năm xưa của người
con xa xứ./.
Một buổi chiều cuối
thu năm 2006
Nguyễn Thị Liên Hưng