Nguyễn Ngọc Kiên và Lê Mai (từ trái sang)
NGƯỜI
TÔN VINH THƠ CA VIỆT NAM
Lê Mai
- Ông là ai? Là nhà thơ đã xuất bản
12 tập thơ, trong đó không phải không có những tập khá, không phải không có những
bài thơ hay.
- Ông là ai? Là nhà sưu tầm, biên soạn,
tuyển chọn gần 20 tuyển tập thơ (với khoảng trên 12.000 trang in), trong đó không
phải không có những cuốn sách có giá trị.
- Ông là ai? Ông nói: Tôi là người yêu
thơ, say thơ và trân trọng thơ, vậy thôi. Ông Hữu Thỉnh - Chủ tịch Hội nhà văn
Việt Nam nói: Gia Dũng là người tôn vinh
thơ Việt Nam.
Ông là Gia Dũng (họ Đỗ) sinh năm 1940,
quê Thái Bình. Thủa nhỏ ông đã có những bài thơ khiến bạn học nể phục. Những năm
đầu thập kỷ 60 của thế kỷ trước, ông đã có thơ đăng trên các báo Văn nghệ, Nhân
dân, Tiền phong....
Ngày 19-5-1965, Gia Dũng, anh cán bộ
trẻ phòng văn nghệ Ty văn hoá tỉnh Tuyên Quang, với cặp kính viễn 3,5 điốp xung
phong đi bộ đội và được điều về đại đội vận tải (C25) sư đoàn 312B. Vào lúc rỗi
rãi hiếm hoi, ông lấy sổ thơ ra đọc - những bài thơ chép tay với nét chữ đẹp. Tình cờ, trợ lý quân lực sư đoàn Lê Thăng biết.
Thế là, một tuần sau ông trở thành nhân viên văn thư của Ban Quân lực sư đoàn, để
rồi năm 1966 về Nam Định nhận quân, điểm danh có Nguyễn Đức Mậu, lên Vĩnh Phúc
có Hà Đình Cẩn, sang Hà Tây có Nguyễn Phúc Ấm....những người bạn văn thơ thân
thiết của ông sau này. Tháng 9 – 1969, Gia Dũng cùng Nguyễn Đức Mậu theo Trung
tá trung đoàn trưởng Nguyễn Chuông (sau là thiếu tướng Phó tư lệnh quân khu II)
đi chuẩn bị chiến trường. Chuyến vượt Trường Sơn gian nan, hiểm nguy này đã cho
ông nhiều cảm xúc hào hùng và lãng mạn, giúp ông viết nên bài thơ nổi tiếng “Bài
ca Trường Sơn”. Để rồi, vào một ngày đang lúi húi lấy củi trên đỉnh A Sầu, A Lưới,
ông bỗng nghe “đài hát”.... “Trường Sơn ơi!
Trên đường ta qua chưa một dấu chân người/Có chú nai vàng nghiêng đôi tai ngơ
ngác/Dừng lưng đèo mà nghe suối hát/Ngắt một đoá hoa rừng gài lên mũ ta đi....”
. Ông lắng nghe và vui sướng, tự hào đến run người, nhưng....ở cái chốn chiến
trường A Sầu, A Lưới mù trời khói lửa đạn bom này, còn đâu một đoá hoa rừng cho
ông tự thưởng mình. Năm 1972 ông bị thương rồi nhận quyết định về công tác tại
tạp chí văn nghệ quân đội cùng các nhà thơ: Thu Bồn, Nguyển Đức Mậu, Duy Khán,VươngTrọng
... Những tưởng từ đây ông sẽ yên tâm sống để dựng xây sự nghiệp văn chưong. Nào
ngờ, cuối năm 1978 tình hình biên giới phía bắc trở nên căng thẳng. Thế là ông
xin lên biên giới để xây dựng hội văn học nghệ thuật tỉnh Hà Tuyên. Ở đây, với
7 năm trên cương vị phó chủ tịch kiêm tổng thư ký hội văn học nghệ thuật một tỉnh
một tỉnh miền núi tuy vất vả nhưng đã mang đến cho ông những lợi thế cho công
việc sau này.
Năm
1990 khi Hà tuyên tách tỉnh, ông lặng lẽ rời núi rừng xuống Hà nội thuê nhà, mướn
“đại bản doanh” để mở mặt trận mới: làm sách thơ. Bạn bè tâm sự: làm sách văn
xuôi khả dĩ còn có thể sống được chứ làm sách thơ thì... ai mua. Nhưng ... nếu
chỉ vì lẽ mưu sinh thì việc gì ông phải nhọc lòng xa nhà rời núi. Trong ông còn
có sự thôi thúc cao cả hơn nhiều.
Vì say thơ, trân trọng thơ cho nên khi nhận thấy
cảm xúc trong lòng không còn được dào dạt như xưa sức sáng tạo có phần suy giảm
ông lập tức dừng bút. Chẳng lẽ ông phải xa thơ ư? Ông đã có cách .Ông sẽ làm các
tuyển thơ thật đẹp thật hay để tôn vinh, lưu giữ những giá trị nghệ thuật vĩnh
hằng.
Khi làm sách thơ ông tự đặt cho mình nguyên tắc:
chỉ tuyển chọn thơ hay, không lệ thuộc vào tác giả. Phải thế chăng mà trong tuyển
“Thơ Việt nam 1945-2000” không có bài
của trên 20 nhà thơ là hội viên hội nhà văn Việt nam, trong khi đó ông lại chọn
tuyển thơ của trên 200 tác giả tên tuổi còn lạ lẫm.
Lại nữa, tuyển chọn thơ không lệ thuộc vào tài
trợ. Ông đã từng tế nhị từ chối trên chục ngàn đô la tài trợ của một giáo sư người
nước ngoài “gốc việt”... Ông đã từng lẳng lặng bỏ qua lời đề nghị của một ông
giám đốc: sẽ tài trợ hàng chục triệu đồng, sẽ mua hàng trăm cuốn sách nếu ông
tuyển chọn cho ông ta... một bài thơ .Ông thường nghĩ: thơ hay thời nào cũng có
nhưng thời nào cũng hiếm. Muốn tìm được thơ hay thì phải đọc, đọc hàng vạn bài
thơ. Phải lắng nghe, nghe hàng nghìn người để phát hiện. Nên ông đi khắp mọi miền
quê đất nước để “nhặt thơ”, “gom bạn”. Nghe Mường Lò có ông Lò Văn Tâm (dân tộc
Thái) làm thơ hay là ông đến Mường Lò. Đọc bài thơ “Nhớ Hồ gươm” của Tống Ngọc
Hân thấy hay là ông lên Sapa. Chọn bài thơ “Giá gạo Tràng An” của nữ sĩ Mộng
Tuyết là ông tới Hà Tiên. Hâm mộ tài năng tướng Nguyễn Sơn là ông vô Sài gòn nhờ
cậy người tìm đến nhà riêng của con gái tướng Nguyễn Sơn để xin thơ.
Nhờ Gia Dũng tôi mới được xúc động cùng những
câu thơ hay của những tác giả không quen biết...Con về thăm mẹ đêm mưa / Mới hay nhà dột gió lùa bốn bên / Bao nhiêu hạt
thẳng hạt xiên / Đã rơi vào mẹ những đêm trắng trời /Con đi đánh giặc suốt đời
/Mà không che nổi một nơi mẹ nằm (Đêm mưa - Tô Hoàn). Hay như ... Mình về con dốc thì dài / Mây chen chân
ngựa, gió cài vành khăn / Lời yêu trong mắt long lanh / Mùa xuân căng mọng nửa
vành áo thêu (Chợ phiên - Nguyễn Thọ)
Gần 20 năm “ lưu lạc giang hồ” với lòng ngưỡng
mộ tôn vinh thơ Việt, Gia Dũng đã sưu tầm biên soạn được các tuyển thơ như:
Năm 1999, ông xuất bản cuốn Chúng tôi đánh giặc và làm thơ gồm 280
bài thơ của 120 tác giả là người lính. Đây là cuốn sách ông tâm đắc vì ông trả được
món nợ lòng đối với những người đồng đội. Khi nhận viết lời giới thiệu cho tuyển
thơ này, đại tướng Võ Nguyên Giáp nói đại ý: nếu cán bộ và chiến sĩ trong quân đội
ta biết tôi từ chối viết lời giới thiệu cho cuốn sách này thì anh em sẽ nghĩ gì
về tôi?
Cuốn sách ra đời ngay lập tức được công chúng đón
nhận. Giữa tháng 12 năm1999, trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn thành
phố Hồ Chí Minh tổ chức buổi giới thiệu cuốn sách, trong số đông công chúng thăm
dự có cả gia đình con gái tướng Nguyễn Sơn, con trai nhà thơ Huỳnh Văn Nghệ, chị
gái nhà thơ Lê Anh Xuân...
Năm 2000, ông xuất bản cuốn Thơ các dân tộc thiểu số Việt nam thế kỷ XX
gồm trên 600 bài của gần 500 tác giả. Lần đầu tiên các dân tộc thiểu số Việt
nam có một tuyển thơ thế kỷ.
Năm 2001, xuất bản tuyển Thơ Việt nam1945 - 2000 đánh
dấu mốc lịch sử quan trọng của thơ Việt nam. Tập tuyển được tạp chí Thế giới mới
đưa vào kỷ lục sách Việt nam.
Năm 2004, xuất bản cuốn Ngàn năm thương nhớ gồm 938 bài thơ của 886 tác giả. Cuốn sách bìa
cứng , giấy đẹp có hoa văn nổi, dày trên 2000 trang, nặng tới 3,6kg. Đây là tuyển
thơ lớn nhất về Thăng long – Hà nội từ trước đến nay. Tạp chí Thế giới mới một
lần nữa ghi nhận: “Người tự phá kỷ lục về tuyển thơ đồ sộ nhất lại chính là Gia
Dũng”. Cuốn sách Ngàn năm thương nhớ vượt
kỷ lục về độ dày, về số lượng tác giả, về thời gian (10 thế kỷ) và cả về không
gian (ngoài các tác giả trong nước còn có 86 tác giả thuộc 42 quốc gia trên khắp
các châu lục).
Tháng 12 -2004, xuất bản cuốn Hồ Chí Minh - Hợp tuyển thơ dày 1640
trang. Đây là cuốn sách lớn nhất trong lĩnh vực thơ ca về Chủ Tịch Hồ Chí Minh.
Tháng 8 - 2005, xuất bản cuốn Nước
non một dải dày 1962 trang với 999 bài thơ của 999 tác giả. Cuốn sách giống
như một tấm bản đồ thơ ca, một “Từ điển thơ” về đất nước và con người Việt nam,
quy tụ đủ tác giả, tác phẩm của 61 tỉnh thành (có cả những tác phẩm của người
Việt sống xa tổ quốc).
Đầu thu năm 2007, xuất bản cuốn Nguyễn Trãi với Côn Sơn dày 1680 trang
(trong đó có 1400 trang Hán nôm) với 219 tác giả.
Tháng
6 -2008 xuất bản cuốn Tràng An một thuở.
Thu 2008 xuất bản cuốn Văn chương Thái bình
10 thế kỷ dày 1800 trang (với 1200 trang Hán nôm). Đặc biệt, theo dự tính
ngày 1 – 1-2010 ông sẽ cho ra mắt bạn đọc bộ tuyển thơ Việt thi thiên tải (ngàn năm thơ Việt) gồm 2 tập dày 2980 trang (có
1380 trang Hán nôm) với 1280 tác giả. Đây sẽ là bộ tuyển thơ tầm cỡ, chúng ta sẽ
đón chờ một kỷ lục nào đây?
Vào
những ngày này chúng ta vẫn thấy ông tiếp tục đọc, đi, gặp gỡ để gom nhặt thơ
hay. Trên bàn làm việc của ông, trong nhà in, các tập thơ, tuyển thơ do ông biên
soạn luôn sẵn sàng ra mắt bạn đọc. Xin cảm ơn và chúc mừng nhà thơ, nhà biên soạn
Gia Dũng.
Lê Mai