VÕ
VĂN LUYẾN THỨC CÙNG TRANG VĂN.
(Nhân đọc cuốn sách "Đối ngọn đèn khuya" - Tập nghiên
cứu và phê bình văn học của Võ Văn Luyến, NXB Thuận Hóa, Huế 2014)
Phạm Xuân Dũng
Bên cạnh chân dung con người sáng tác với
diện mạo của một nhà thơ, Võ Văn Luyến còn có gương mặt thứ hai của một người
làm khoa học: nghiên cứu và phê bình văn chương.
Phần đầu cuốn sách, tác giả nghiên cứu về
"Đặc điểm nghệ thuật thơ tứ tuyệt Việt Nam hiện đại". Đề tài mang
tính học thuật này cũng là một thử thách không nhỏ đối với những ai lao tâm khổ
tứ từ góc nhìn thể loại. Hơn nữa thơ tứ tuyệt tuy là thể thơ truyền thống có
tuổi đời ngang ngửa ông Bành Tổ, nhưng lại không phải nhất thành bất biến hoặc
ít thay đổi trong nội dung và hình thức biểu hiện. Thể loại "bé hạt
tiêu" này vận động liên tục và ngày càng tung hoành, thể hiện một nội lực
ghê gớm và không ngừng biến hóa trong đời sống văn học hiện đại Đây là địa hạt thú vị nhưng lại không hề đơn giản, nó đòi
hỏi sức đọc, sức nghĩ và sức viết của người làm khoa học. Chính vì thế, người
viết đã dành nhiều tâm can và bút lực cho những trang viết giàu chất lý luận
nghiên cứu phê bình.
Ngay trong lời nói đầu của công trình khoa
học công trình khoa học về thơ tứ tuyệt, nhà nghiên cứu Võ Văn Luyến đã nhìn
nhận sức sống mãnh liệt và sự bùng nổ của thể loại này trong văn chương Việt
ngày nay. Theo đó, tác giả đã chỉ ra "Thơ tứ tuyệt là hiện tượng độc đáo
của đời sống văn học. Sự quay trở lại rầm rộ với thể thơ tứ tuyệt (sáng tác,
vận động dư thi, in tập của từng tac giả, in tuyển...) là dấu hiệu của sự thích
ứng, phù hợp tâm lý sáng tiếp nhận của thời hiện đại." ( Đối ngọn đèn khuya,
trang 8)
Chương một " Thơ tứ tuyệt-cổ điền và
hiện đại" đã khái quát một số quan
niệm về thơ tứ tuyệt. Trong phần này, tác giả đưa ra một cách nhìn về thể loại
không nên quá câu nệ vào hình thức tứ tuyệt theo cách hiểu truyền thống, vì như
vậy nó vừa gò bó, máy móc "họa bì" chưa "họa cốt" dễ dẫn
đến nguy cơ đẽo chân cho vừa giày, lại vừa không bao quát hết những sáng tác
hiện đại với những tìm tòi thể hiện vượt thoát khỏi những "khuôn vàng
thước ngọc" cổ điển. Cũng bởi Nàng
Thơ Tứ Tuyệt bây giờ: "em hát khác xưa rồi, khóc cũng khác xưa" như tác giả lý giải một cách xác đáng:"
Qủa thực, văn hóa tri thức ngày càng đóng vai trò biểu cảm. Thơ suy tưởng mỗi
một ngày nhiều hơn, biểu hiện thơ đa phức, đa tầng hơn. Tính triết lý là dấu
hiệu nổi trội trong thơ, nhưng nhìn toàn cục thì độ đậm đăc triết lý trong thơ
tứ tuyệt thấy rõ hơn, dường như tứ tuyệt là một thể thơ đắc địa, một mô hình
cho tư tưởng giãi bày. Có phải vì thế mà thơ tứ tuyệt đang có chiều hướng gia
tăng và ra đời với một gia tốc đáng được chú ý vào cuối thế kỷ XX này" (
tr 17, sđd ).
Từ đó, nhà nghiên cứu đề xuất một quan niệm
tương đối mới về thơ tứ tuyệt:"
Theo chúng tôi, tứ tuyệt là một thể thơ bốn câu bao gồm nhiều dạng
(ngoài năm, bảy chữ còn có cả bốn, sáu, tám, lục bát, tự do) ôm chứa nhiều vấn
đề nhưng trong mỗi vấn đề chỉ chọn ra một khoảnh khắc bất ngờ, đầy tính khám
phá phát hiện, tính triết lý bằng việc đặt đối tượng phản ánh trong các mối
quan hệ để bật ra một khía cạnh nào đó thuộc về bản chất." (tr 18, sđd)
Trong chương hai:"Diện mạo thơ tứ tuyệt
Việt Nam hiện đại qua các chặng đường văn học" tác giả bằng thao tác khoa học đã đưa ra bảng
thống kê về sự thay đổi của các thể tứ tuyệt, từ năm chữ, bảy chữ, bốn chữ, sáu
chữ, tám chữ, lục bát, thơ tự do qua các giai đoạn : 1900-1945, 1945-1975, 1975
đến nay. Sự thắng thế của thể thơ bốn chữ, sáu chữ, tám chữ và thơ tự do từ năm
1975 về sau đã cho thấy xu hướng tự hóa trong hình thức thể hiện ngày càng rõ
nét trong thơ nói chúng và trong thơ tứ tuyệt nói riêng. Phần này cũng đã phân tích
và khẳng định sự đóng góp về phương diện sáng tác của các nhà thơ Việt Nam sau
năm 1975 như Trần Mạnh Hảo và đặc biệt là Chế Lan Viên. Sự nở rộ của thể thơ cô
đọng, hàm súc này chứng tỏ sức sống lâu bền và sự nở rộ của thơ tứ tuyệt trong
quá trình cách tân. Nhận xét của Võ Văn Luyến cũng rất đáng lưu ý:" Chủ
thể trữ tình được ẩn giấu (do hạn chế ngôn từ) trong thơ tứ tuyệt nhưng lại tỏa
ra từ nhiều cái tôi (lemoi) khác nhau nên người ta tìm đến tứ tuyệt, ở phương
diện thưởng thức, như tìm tới sự thức nhận cuộc sống giàu trí tuệ, tình cảm cho
mình. Rút cục tính triết lý của tứ tuyệt dù ở giai đoạn nào cũng cần điều bổ
ích mà lý thú đó." (tr 60, sđd)
Chương ba và cũng là chương trọng tâm
:" Đặc điểm nghệ thuật thơ tứ tuyệt"
đã có những đóng góp khá quan trọng trong việc nghiên cứu hình thức biểu
hiện của thể thơ này. Võ Văn Luyến đã minh định về cấu trúc thơ tứ tuyệt với
những đặc điểm như : một cấu trúc nhỏ nhìn ra thế giới rộng lớn khi phân tích
những bài thơ của Chế Lan Viên, Vũ Hoàng Chương, Yến Lan, Nguyễn Bính, Nguyễn
Đức Mậu, Vũ Quần Phương, Nguyễn Trung Thu...để thấy được quan hệ ánh xạ đặc
biệt giữa nghệ thuật và thế giới khách quan, giữa thơ và hiện thực cuộc sống;
hay sự tìm tòi vai trò, ý nghĩa của mỗi đơn vị câu thơ trong một bài thơ chỉ có
bốn câu trong cấu trúc tứ tuyệt. Sự tháo dỡ "ngôi nhà thơ" tứ tuyệt
để tìm ra đặc điểm của từng câu chính là sự tìm tòi về hình thức mang tính nội
dung, giúp người đọc hiểu sâu hơn "thiết kế" của thể loại này. Tác
giả thông qua phân tích dẫn chứng sáng tác cũng đã có những tiểu kết khoa học
cần thiết về ngôn ngữ thơ :" Tứ tuyệt hiện đại giải phóng ngôn từ ra khỏi
các công thức khô cứng để hướng tới cái đẹp khác, cái đẹp của giọng điệu, của
tình cảm tự nhiên, của sắc thái, cá tính, của sự miêu tả cụ thể, tinh tế."
(tr 87, sđd)
Kết luận công trình nghiên cứu này, tác giả
khẳng định và dự báo lạc quan về sứ mệnh thể thơ vi diệu:" Trong thời đại
bùng nổ thông tin như hiện nay, thơ tứ tuyệt nhất định sẽ không ngừng phát
triển trên cả hai phương diện; chất và lượng. Cũng như đời sống vật chất-tinh
thần ngày cang cao, người ta cần chất hơn lượng mà ở tứ tuyệt "chất thống
trị lượng" . Điều này cho thấy "ai không biết tự hạn chế mình thì
không bao giờ biết viết văn" (Boileau). Tứ tuyệt là một cách biết hạn chế
đúng mực vậy." (tr 104, sđd)
Phần hai cuốn sách phê bình giới thiệu tác phẩm thơ văn. Có thể
nhận ra ở đây những cây bút từng sống và viết ở Quảng Trị như Nguyễn Văn Đắc,
Nguyễn Văn Chức, Trần Đình Thành, Lê Văn Hoan, Minh Tứ, Đức Tiên, Nguyễn Văn
Trình, Nguyễn Tài Mỵ, Võ Văn Hoa... hay
đã xa quê như Trần Xuân An, Võ Thị Như Mai...
Thi sĩ Nguyễn Văn Đắc từng nổi tiếng với bài
thơ "Cái rốn" đầy cảm hứng nhân sinh đọng lại trong mắt nhìn của cây
bút phê bình Võ Văn Luyến: " Tác giả biết dựng dậy cơn ngái ngủ đời người
trên trò chơi bập bênh con chữ bởi sứ mệnh thi ca đòi hỏi sự trầm tư trong hồn
nhiên, sự cay đắng trong ngọt ngào ..." (tr 116, sđd) Còn nhà thơ Trần Xuân An nhớ về cố hương bằng
tâm cảm :" Nơi cho giọng nói chưa pha phách. Chốn yêu thương, về bỗng khóc
ròng" (Tặng một người...) được đánh giá "Dù đi xa nhưng lòng vẫn
hướng về nơi chôn nhau cắt rốn. Đấy là lúc tình cảm câu thúc để có được những
câu thơ dung dị, thật lòng mà thấm thía, cảm động." (tr 187, sđd) Con mắt phê bình của Võ Văn Luyến đã tinh tế
nhận ra một Lê Thị Mây đầy nữ tính trong "Đám cỏ xanh" khi người yêu
lỡ hẹn:"Qúa trình từ vô thức "bứt cỏ" đến hữu thức "đau cây"
hóa ra có ngọn nguồn cơn nhói của tim. Đấy là nỗi thất vọng có cái gì đe dọa hơn cả sự thất tín, bởi linh
giác đánh động sự mất yên tĩnh (phụ nữ thường sợ những biểu hiện gơi cái mong manh, dễ vỡ)..."
(tr 203, sđd)
Cảm nhận
tập bút ký, phóng sự "Dòng sông ký ức" Võ Văn Luyến luận
bình:" Có thể nói, Minh Tứ là cây ký có khả năng thâu tóm, lật xới sự
kiện, làm nổi bật những vấn đề nóng hổi, xã hội quan tâm hay vấn đề xưa cũ
nhưng tươi nguyên "chất sống" và lay thức tâm cảm người đọc."
(tr 122, sđ d). Còn khi chiêm nghiệm truyện ngắn Hòa Vang, tác giả phê bình gọi
tên lối viết đó là "dòng ý thức phản huyền thoại". Và truyên
ngắn" Sự tích ngày đẹp trời"
viết lại câu chuyện truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh thực ra là một phản đề
văn chương, vì thế Võ Văn Luyến đã có
lý khi viết: "Thông điệp mà Hòa
Vang muốn gửi tới độc giả không như ngọn
gió đi tìm sự đồng cảm mà là lời khẩn cầu về một lẽ công bằng cho cuộc sống,
tình yêu và hạnh phúc. Hơn cả chiêu tuyết, minh oan cho Thủy Tinh, nhà văn cố
gắng làm thay đổi cái nhìn đơn giản một chiều, duy lý về nhân vật luôn bị xem
là tội đồ đáng nguyền rủa." (tr 109, sđd)
Dù còn đôi điều có thể cần phải bàn thêm về
thơ tứ tuyệt; hay góp ý nên chọn lọc hơn
đối với tác giả thơ, để tránh sự ôm đồm
trong một tập sách phê bình đúng nghĩa, thì người đọc tựu trung, vẫn
đồng cảm nhiều và trân trọng lao động của cây bút Võ Văn Luyến. Trong tình hình
viết lách hiện nay, độc giả thêm trân trọng một cây bút nghiên cứu phê bình
lặng lẽ và nghiêm túc, một mình đối ngọn đèn khuya, thức cùng trang văn để góp
nhặt những gì đồng điệu.
Phạm
Xuân Dũng