Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Friday, February 24, 2012

NGÔI TRƯỜNG TRONG TRÍ NHỚ - Trần Quốc Phiệt



     Kể  ra nghe cũng buồn cười, ấy là  khi học bài giảng văn “Tôi
     đi học “ của nhà  văn Thanh Tịnh, mãi miên man tưởng tượng 
     hình ảnh và tâm tư đó của chính mình ở một ngày nào vào buổi
     đầu tiên cắp sách đến trường. Đương nhiên bài giảng văn đó thì
     quá hay rồi, nhất là với một cậu học trò trí óc còn ngây thơ, trái
     tim dễ rung cảm thì nó là một áng văn chương tuyệt tác.

      Ấy là những bài giảng văn của năm đệ thất đệ lục, lên lớp cao hơn, khi học chương trình Pháp văn, lại được học Anatole France, tuy tiếng Tây mới chỉ bì bõm mà đã thấy hay làm sao, lại lần nữa bị cuốn vào khung cảnh mùa Thu lá vàng bay, chú bé học trò như chim con tung tăng trên bãi cỏ xanh, lác đác vài ngọn lá vàng rơi, ôi sao mà thơ mộng. Những bức tranh phác thảo bằng văn từ ấy, đánh thức tôi về với quá khứ tuổi thơ, đúng là hai khung trời cách biệt.
       
      Hồi tưởng lại chuổi đời nghèo nàn rách nát xác xơ, tìm tòi trong những trang sách người ta có  nói đến cảnh học trò  nghèo, nhưng không một ai tả  đúng hoặc na ná như mình cả, thôi thì dù văn chương viết lách chỉ loại tò te, nhưng cũng cố gắng ghi lại những gì đã biết và còn nhớ cái thời học trò ở xứ quê mùa dưới ngôi trường mái tranh vách lá, nền cát ghế tre, bàn kê trên gạch bể, gọi là ôn về dĩ vãng một quảng đời nhọc nhằn của những đứa trẻ sinh ra nơi miền xa xôi hẻo lánh, xa vời ánh sáng văn minh thị thành, một thời khổ nạn của quê hương, người con xứ nghèo nhưng ham học, dù trãi qua những ngày khổ cực trần thân gian truân nhọc nhằn, nhưng cũng là một chặng đời đầy thú vị nên thơ.

        Có  ai đó nếu tò mò muốn hỏi cảm tưởng của tôi về ngày đầu tiên cắp sách đến trường, xin thưa thật khó  mà trả lời cho chính xác, có  thể nói rằng tôi đã từng là  cậu học trò trường làng, thuở  khởi đầu chỉ có  hai lớp, dù vậy cũng được gọi là trường vì nơi đây là một ngôi trường có tên, có lớp, có hiệu trưởng, giáo viên, có hội phụ huynh học sinh, có bàn ghế, tuy đơn sơ mái tôn vách trét.

          Đó là những năm đầu tiên của miền Nam sau ngày chia hai đất nước, nơi ấy là trường cho cả một vùng, vì nó nằm trên đất làng tôi, cuối đầu Đông, trường cũng mang tên làng tôi, trường tiểu học An Lưu, được dựng lên trên nền cũ của ngôi trường thời trước.  Lần đầu tiên trong đời làm cậu học trò đi đến trường đúng cách, đúng nghĩa nhưng không phải là buổi học “khai tâm”. Và tôi chỉ học nơi ấy môt năm duy nhất, sau đó là vào học ở Huế, những năm sau này tôi về thăm quê thì đã được xây cất khang trang, rào dậu, cổng ra vào rất quy củ.

            Tôi sẽ không nhắc đến những ngôi trường bề  thế tiếng tăm ở  Cố Đô, mà tôi đã từng trãi qua như trường tiểu học Trần Quốc Toản, Trường Trung Học Kỹ Thuật, trường Quốc Học, bởi những nơi này ai mà chẳng biết, tự nó đã nổi tiếng từ lâu và vẫn tồn tại. Tôi cũng không nhắc đến trường trung học Nguyễn Hoàng, nơi mà tôi từng là môn sinh một thời, dù nay không còn tên cũ, nhưng nó vẫn còn được nhắc nhở bởi nhiều người từ nhiều thế hệ. 

            Thế  thì tôi sẽ nói về  một ngôi trường lạ lùng, không có  tên, rất ít người biết  đến, hoặc có biết, cho đến nay người mất thì  đã mang đi, ngưới còn chắc  gì đã nhớ, đó là những gì tôi sắp viết ra đây.  

            Ngôi trường đầu đời của tôi thật là  khó tả, gọi đó là  ngôi trường ư - không phải - đó là cái trại, cái chái  ư, cũng không đúng, chẳng có  tên gì cho nó cả, thôi thì  tạm gọi là ngôi trường đi, vì dù hình trạng là cái chái, cái trại, nhưng nơi ấy lại để cho một lũ trẻ con lớn bé không cùng trang lứa, nam và nữ quây quần để tập tò học chữ Việt, một người phụ trách duy nhất, vừa là hiệu trưởng, vừa là thầy giáo tất cả các lớp, vừa là thư ký, thu ngân viên - nói là thu ngân viên cho nó văn vẽ chứ thực ra cái gì cũng thu : tiền, gạo…. người chưa trả thì ghi nợ - và … kiêm nhiệm hết. Đó là những cái lạ nên tôi mới cà kê kể lể ra đây, cho nên dù có lẩm cẩm thì đây là một điều lạ bất ngờ may ra biết đâu người đọc đỡ nhàm chán.
             
            Trong hoàn cảnh quê hương ta vào thời  ấy, chắc chắn có rất nhiều nơi, nhiều người cở  ngang hoặc lớn hơn trang lứa với tôi từng trãi qua cảnh học hành kiểu ăn bòn chữ  nghĩa như thế, nhưng mấy ai có  thì giờ ngồi ghi lại một chút hoài niệm thuở  cơ hàn, dù về sau một số ra nơi thị thành, tiếp tục học hành hiển đạt thành danh, số còn lại cũng có vốn liếng ăn học để thi thố với đời. Cho đến ngày nay, qua bao nhiểu nhương loạn ly phân hóa, số người này còn lại không nhiều, đa phần đã già cả, họ chỉ còn giử được lại lờ mờ trong tiềm thức. Một số ít lớp trẻ hơn, khi ra nước ngoài lại phải vật lộn với cuộc sống cơm áo gạo tiền, những chuyện xa xưa dần dần đi vào quên lãng, dĩ vãng tàn phai, mái trường không tên tan vào cát bụi, thì thôi xin nhắc lại một lần. 

            Từ  nhà tôi đi đến trường khá  xa, tất nhiên là đi bộ, muốn nhanh không thể  đi đường ngay ngõ thẳng, mà  phải đi đường tắt sau làng. Vùng tôi làng kề  làng, trước làng là ruộng lúa, sau làng là  rú và nương khoai toàn  đất cát. Gian nhà một mái  được dựng dưới bóng lùm cây, gần bên con đê ngăn nước của làng bên.  Đó mới chính là ngôi trường đầu đời của tôi, thời gian của tôi học nơi này không nhiều, làm sao tôi có thể nhớ được đã học những gì nơi ấy, vì trước khi đến đó tôi đã được học ở nhà biết đọc biết viết, biết làm các phép tính. Tuy vậy vẫn để lại trong tôi hình ảnh thân thương không bao giờ quên. Tôi đặt cho nó cái tên “Ngôi trường trong trí nhớ”.  
             
            Vì  học trò không cùng trang lứa, trình độ khác nhau, đến từ  vài làng kế cận, nên khó  mà nhớ được nhiều,  trong số này về sau, khi tôi có thời gian trở lại Quảng Trị học trường trung học Nguyễn Hoàng, vài người học ngang năm với tôi nhưng khác lớp. 

            Thầy giáo duy nhất là Anh Kỷ, người mực thước da bánh mật, còn rất trẻ nhưng dáng dấp  đạo mạo, nói năng nhỏ  nhẹ thân thiện, anh luôn gọn gàng trong bộ đồ màu nâu, trên tay thường có cái xách với vài cuốn tập. Chúng tôi không gọi là thầy Kỷ mà chỉ gọi anh Kỷ.

            Anh Kỷ cũng là vị  thầy đầu đời của tôi, tuy gần gủi với anh rất  ít, sau này dù ở Huế  hay về Quảng Trị, tôi  đã được ngồì để nghe những vị thầy nổi tiếng khả kính giảng bài, thì hình dáng anh Kỷ vẫn còn giử trong tôi như thuở nào dưới mái tranh vách lá ấy.  

            Trường không có trống, không có  kẽng, giờ giấc được truyền  đạt bằng miệng, vào thời buổi  ấy mấy ai có đồng hồ đeo tay, tất cả hầu như xài đồng hồ mặt trời, nghĩa là muốn biết trưa chiều hay tối, cứ ngẫng mặt lên trời mà ước tính, những ngày trời u ám hoặc mưa gió thì chỉ có đoán chừng. 
             
            Trong giờ học, ngồi thành từng nhóm theo trình độ, không có bảng đen và  phấn trắng, tất cả đều viết lên giấy chuyền tay nhau mà chép, tôi không hề biết đến sổ điểm, bảng vị thứ đừng nói chi đến bảng Danh Dự như sau này, cứ tưởng tượng đi, trong điều kiện khó khăn như thế mà vẫn học, cuộc sống đơn sơ của những đứa trẻ thôn dã, từ tấm bé chỉ quanh quẩn với những chú dế trong đám cỏ khô ngoài đồng mùa nước cạn, hay với màng bọt sủi cá thia thia dưới khóm lúa đang trổ đồng đồng, hoặc xem người lớn vung cần câu trong mấy cái ao đìa phất phơ hoa bèo có cánh lục bình tím nhạt, bây giờ được tụ tập học hành chơi đùa đông đảo với nhau cũng là thú vị quá rồi, nào là đuổi bắt, trốn tìm, đánh căng, đạp mạng…trên bãi cát cạnh lùm cây. 
             
            Tuổi thơ nơi miền thôn dã  đi qua với bao kỷ niệm trong cuộc sống lam lũ  xứ nghèo, ra đời lưu lạc  đó đây, tôi vẫn mang theo như hành trang lưu niệm ghi lại trong lòng, không thể thiếu hình dáng anh Kỷ và mái trường nắng soi mưa dột, núp bóng dưới lùm cây. 

            Cả  hai xóm nhà nơi tôi ở, có  ba ” đồng môn” với nhau dưới “ngôi trường trong trí  nhớ” ấy thì nay hai tay đã ra người thiên cỗ, nếu tính chung số còn hiện diện “trên cỏi đời này” đếm không đủ trên đầu bàn tay lại còn lưu lạc mười phương tứ hướng, lấy ai để hàn huyên chuyện xưa tích cũ, nhắc lại những buổi đến trường chỉ chạy chứ không đi, vì đi chậm cát nóng bỏng chân. Những lần trèo cây hái bứa, trái chín thì ăn, trái hườm thì đào cát dấu, ngày sau trở lại đào lên “xơi” tiếp, những lần ngăn mương tát cá, tắm “troong”, ngồi ngẩm nghỉ, hồi ấy mới tí teo sao mà khôn lanh đến vậy. 

            Tất cả đó là những ngày  đi học đầu đời của tôi, vẫn là những kỷ niệm nhớ hoài, dù mộc mạc quê mùa nhưng là hình ảnh tuổi thơ một thời để nhớ, sau này mặc dù được đi học đàng hoàng trong những ngôi trường lớn những nơi thị thành tôi không thể nào tìm lại không khí những ngày trong tổ ấm gia đình, cho nên nhắc đến đoạn văn “ …mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi đi trên con đường dài và hẹp…” tôi thấy thật hay, thật thích thú nhưng đó là những hình ảnh cho tôi thương lãm vay mượn của người khác, cho nên dù mê say với cái hay nhưng cũng cảm nhận sự thấm thía đắng cay của riêng mình.

             
            Ngôi trường trong trí nhớ  của tôi chỉ cất lên một lần rồi  âm thầm đi vào dĩ vãng, tôi  đoan chắc số môn sinh người mất  đã nhiều, kẻ còn rất  ít, nhưng người còn nhớ  đến nó lại càng ít hơn. Sau thời lửa đạn qua đi khá lâu tôi có dịp trở về chốn cũ, thử đi ngang qua đập nước nơi mái trường tranh lá ngày xưa, vẫn còn lùm cây và bãi cát. Đó là một buổi xế chiều giữa Đông, nhưng trời quang mây tạnh sau một chuổi ngày dài mưa gió lạnh lùng. Đứng gần một vũng nước khá lớn trên mảnh đất có vài chòm hoa cỏ dại lơ thơ, màu sắc hài hòa, bầu trời trong xanh phản chiếu dưới lòng nước trong với những con cá bạc uốn mình, một loài chim rất quen cất tiếng hót lên từ lùm cây, trong cái bình an ấy tôi miên man nghỉ đến những ngày tháng xa xưa ở nơi này, nghỉ về anh Kỷ, bây giờ ở đâu hay đã an nghỉ phận đời, cảnh cũ mang máng như xưa, mái tranh từ lâu đã ra cát bụi, người xưa còn mất những ai, bây giờ ghi lại đây đôi dòng hoài niệm, có ai đó còn nhớ những ngày tháng xa xăm ấy không. 
            Trần Quốc Phiệt  


            Hình minh họa: Học sinh tiểu học ở xã Triệu Sơn
            congdoantrieuson.violet.vn
          READ MORE - NGÔI TRƯỜNG TRONG TRÍ NHỚ - Trần Quốc Phiệt

          Đình Thu - GỞI LẠI QUÊ HƯƠNG



          Nhớ về  Quảng Trị quê tôi
          Thương bờ đê lũy tre làng quen thuộc
          Con đường đất tuổi thơ quen chân bước
          Và dòng sông trôi bên lở, bên bồi
          Ra đi …..
          Để  mùa hạ oi nồng
          Cái nắng  như thiêu như đốt
          Gương mặt cha như mặt trời đỏ rực
          Đứng bóng !
          Trâu muốn ngừng thở
          Cha lặng lẽ tháo cày nhìn phía  xa xăm

          Nhớ về  Quảng Trị quê tôi
          Thương lắm miền quê câu hò xứ sở
          Mùa Đông mưa phùn gió bấc
          Bóng mẹ già nua cấy lúa trên đồng
          Trách sao trời rét lạnh căm
          Mắt mẹ thâm quầng tím cả vành môi

          Nhớ về Quảng Trị quê tôi
          Ơi miền ấu thơ làm sao quên được
          Bao năm xa có đêm nào ngủ được
          Nỗi nhớ trong lòng canh cánh tháng năm

          Chừ ! Răng có nhớ suốt đời
          Cũng không quên được cả thời ấu thơ
          Dùng dằng trong cả giấc mơ
          Biết ngày mai đó có chờ nhau không ? 

          Đình Thu
          dinhthubank@yahoo.com


          Ảnh: Con đường qua đồng ở xã Triệu Độ
          yume.vn/xatrieudo
          READ MORE - Đình Thu - GỞI LẠI QUÊ HƯƠNG

          HOA HUỆ - Thơ Bế Kiến Quốc - Lời bình Phạm Ngọc Thái

                                                    
                              HOA HUỆ

                           
           
                            Hoa huệ trắng và bức tường cũng trắng
                              Sao bóng hoa trên tường lại đen?
           
                              Em đừng nhìn đi đâu thế em
                              Anh không biết vì sao, ai có lỗi...
                              Nhưng mãi mãi vẫn còn câu hỏi
                              Sao bóng hoa trên tường lại đen? 


                                                           Bế Kiến Quốc
                                             
                                                            (1949 - 2002)
           
           
               
          Bài thơ đưa ta đến một cảm giác với bao mâu thuẫn của tình yêu: 

                            Hoa huệ trắng và bức tường cũng trắng
                            Sao bóng hoa trên tường lại đen? 


                Màu hoa huệ trắng đặt trước một bức tường cũng trắng như sự trắng trinh thơm ngát ở người con gái, mơ mộng và nên thơ. Nhưng:


                              Sao bóng hoa trên tường lại đen? 


                Đó lại là hai mặt mang đầy kịch tính. Tôi nói “kịch tính” ở đây, bởi vì: Bông hoa nào dù trắng trong và hương ngát bao nhiêu chăng nữa, nhưng khi bóng của nó hắt lên tường thì đều thành màu đen cả
          (nghĩa đen)!...Ý là tình yêu đã mang đến cho ta niềm vui sướng, hạnh phúc vô biên - Ngược lại, tan vỡ cũng gây không ít những đau đớn và thất vọng. Cái mâu thuẫn ấy có mấy đôi trai gái không thường vấp phải? Nhà thơ Bế Kiến Quốc đã sử dụng hình tượng bóng đen đó (nhưng theo nghĩa bóng), để nói lên nỗi lòng mình đang tan nát. 

                Henrich  Haine một nhà thơ lớn nước Đức (1797-1856), trong bài thơ "Những hoa hồng tím nhạt" đã viết:


                              Em có hiểu vì đâu?
                              Những hoa tím im lặng
                             Trêncánh đồng xanh mầu?


               Tình cảm đồng điệu từ những bông hoa tím được nhà thơ sử dụng chỉ cốt  bộc lộ nỗi đau thầm nén của lòng người con trai trên cánh đồng xanh mướt, tha thiết tình yêu  kia! Ông viết tiếp:


                               Vì sao trên không trung
                               Chim sơn ca than khóc?
                               Vì sao đoá hoa thơm
                               Tỏa một mùi chết chóc? 


               Hình ảnh bông hoa được sử dụng thêm một lần nữa nhưng ở mức độ cao hơn, khốc liệt hơn -  Rằng, một đóa hoa thơm cũng mang nỗi khổ hạnh khi trái tim tình yêu người bị đớn đau. Như lời của Nguyễn Du:


                              Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ? 


                Việc sử dụng hình ảnh bông hoa để  nói về tình yêu của nhà thơ Bế Kiến Quốc và Henrich Haine khác nhau là ở chỗ: Hình ảnh của nhà thơ Đức thông qua trạng thái ở bông hoa mà biểu đạt  nỗi xót xa về tình cảm , hay sự quặn thắt trong lòng người - Nhưng bông hoa trong bài thơ "Hoa huệ" thì lại được xây dựng hẳn thành một biểu tượng cho tình yêu!



                Anh viết bài thơ này từ năm 1969, khi còn là một sinh viên trường Đại học Tổng hợp. Nghe nói những năm tháng ấy các sinh viên của trường anh thường lập ra những nhóm thơ, tìm tòi nhiều, cả thơ trong nước và thơ thế giới. Bài thơ đã ảnh hưởng trường phái thơ tượng trưng của văn học châu Âu. Tuy nhiên, đó là sự ảnh hưởng về phương pháp sử dụng hình tượng nghệ thuật thể hiện, tư duy thơ vẫn bắt nguồn từ tình cảm bản thân trong đời sống tình yêu lứa đôi, dồn nén của trái tim mà ra. Cho nên  bài thơ tuy viết theo dạng biểu tượng xúc tích nhưng tình cảm vẫn  tha thiết, đằm thắm:

                          Em đừng nhìn đi đâu thế em
                          Anh không biết vì sao, ai có lỗi..


                Sau hai câu đầu đưa ra sự đối ngược giữa hình ảnh bông hoa trắng với cái bóng trên tường lại đen, tác giả bắt ngay vào diễn tả trạng thái riêng tư - Đó là sự trách cứ người yêu hờ hững chăng? Anh tiếc nuối hay anh phân bua về sự tan vỡ ấy? Câu thơ: 


                          Anh không biết vì sao, ai có lỗi?


              Ta thấy lòng nhà thơ vẫn còn rất  tha thiết với người con gái năm xưa, dù mối tình đã tan có thể không bao giờ còn hàn gắn lại được. Tuy có đôi chút yếu lòng nhưng thơ không rơi vào bi lụy. Có vẻ trách đấy mà đâu có trách, cảm hóa ta về một mối tình đẹp và trong sáng. 


                Tất cả chỉ có sáu câu . Hai câu kết tác giả trở lại với hình ảnh của bông hoa và cái bóng đen trên tường,  khóa bài thơ lại: 


                          Nhưng mãi mãi vẫn còn câu hỏi
                          Sao bóng hoa trên tường lại đen?


                Cái bóng đen của bông hoa in trên nền tường trắng là một bóng... buồn! Câu hỏi: 


                         Sao bóng hoa trên tường lại đen? 


                 mãi mãi còn day dứt, trăn trở trong trái tim
          người con trai! Nhìn "bóng hoa đen"... lòng anh lại càng xa xót về một kỷ niệm đã xa xưa. Sự đối ngược giữa  hình ảnh bông hoa trắng và bóng đen tự thân đã mang theo một  quan điểm triết lý về sự hợp tan, lành dữ trong trời đất. Đó cũng chính là ý nghĩa  tự nhiên của tình yêu và cuộc sống, vừa hạnh phúc mà lại vừa đau khổ! 

                Nhà thơ Bế Kiến Quốc đã tạo nên bức tranh "Hoa huệ" không kém phần độc đáo.





                  Phạm Ngọc Thái
          READ MORE - HOA HUỆ - Thơ Bế Kiến Quốc - Lời bình Phạm Ngọc Thái

          CHUYỆN TÌNH - Trương Nguyễn


          Em với mắt thất thần ngái ngủ
          Từng đêm dài nghe kể chuyện ngày qua
          Ngồi im lặng….
          Cúi đầu nói nhỏ
          Kể nữa đi anh !
          Anh kể chuyện mình
          Một cô gái thiên đường xây lỡ dỡ
          Sống nữa chừng buồn bã bổng hiện sinh
          Bao năm dài giữ cho người tình lỡ
          Giữa phút lao đao – nghĩ tới phận mình
          Thời gian qua người chưa hề mơ ước
          Được yêu thương – chắp vá nụ cười
          Rồi một thuở…
          Có người dừng bước
          Như cánh chim mệt lã cuối bầu trời
          Họ gặp nhau
          Khi đời vừa chợt tối
          Tay nắm tay dìu dắt khỏi đêm sâu
          Không ước hẹn mà lòng nhắn gởi 
          Vì tình yêu đã hóa nhiệm mầu


          truongnguyen49@yahoo.com.vn

          Tranh minh họa của họa sĩ Ái Lan
          READ MORE - CHUYỆN TÌNH - Trương Nguyễn