AI
LÀ MỘT
TRƯƠNG?
Vĩ
Văn * Chu Vương Miện
Nay
cũng hơi hưỡn, ở không, chúng tôi lại xin được trở
lại vấn đề “Một
Trương” mà nhà thơ tiền
chiến
Phan Khắc
Khoan đã có lần đề cập tới, nhưng chỉ chút đỉnh là
ngưng ngay tức khắc. Tôi
tính hay thắc mắc nên dò dẫm xem là Mr “Một
Trương” là vị cao nhân xứ nào?
Nói
tới thời nhà Đông
Tây Châu xứ Ba Tàu có tới 1000 nước nhỏ, thuộc loại
chư
hầu,
là nước trực tiếp với đại quốc nhà Châu, còn những
nước thuộc loại phụ dụng như nước Ngô, nước Việt
thì Ngô thuộc Tề và Việt thuộc Sở, đánh nhau ròng rã
cả 1000 năm. Sau
đến thời Xuân Thu thì
còn vài trăm mà thôi và đến thời Chiếc Quốc thì còn
bẩy trự. Sau
đó
nhà Tần nuốt trọn thống nhất Chung Quốc, thu gom về
thành một
mối. Nếu
ông “Một Trương”
mà xuất hiện vào thời kỳ này chắc chết mất xác, đàn
địch cái nỗi gì? Sau đó thì sách báo bị Tần Thủy
Hoàng mang đốt hết, vì mấy năm đó thời tiết
lạnh kinh khủng, tuyết rơi cả ngày đêm, đốt hết mọi
thứ mà dân chúng bá tánh không ấm. Thôi
thì trong lúc lâm nguy cứu rét, nhà nào có sách vở thơ
văn tiểu thuyết chi đó thì cứ mang ra mà đốt để sưởi
cho ấm, mai mốt không rét nữa thì chúng ta tha
hồ mà viết sách làm báo, thành ra nếu có
vị nhạc sĩ nào chơi hồ
cầm
thuộc vào danh sư thì cũng chả ai mà biết tới, loạn
lạc liên miên, chỉ có thời nhà Đại Đường là thơ
phát triển, hy vọng có Mr “Một
Trương”, nhưng vào giai đoạn “Giữa Đường”
(tức
là thời Trung Đường)
thì Tiết Độ Sứ An Lộc Sơn ở không cũng buồn, bèn
nổi loạn, giết bá tánh, dân số Nhà
Đại Đường chỉ
còn một nửa. Chắc
vị “Một
Trương”
nếu có thì cũng thác trong giai đoạn tai bay vạ gió này?
Qua
thời kỳ Tống Nguyên, dân số Ba
Tàu khoảng 200 triệu, dân Mông Cổ (tức
là Nguyên
Chủ)
ra lệnh cho toàn quân được quyền giết dân Ba
Tàu tự do, nên sau 90 năm cai trị, nhà Nguyên đi đoong,
Chu Nguyên Chương lên làm vua nhà Đại Minh cho kiểm tra
dân số, thì lúc đó dân Ba
Tàu chỉ còn 65 triệu, phần còn lại thì phiêu diêu miền
cực lạc hết trọi, chắc là trong thời kỳ nhà Mông Cổ
Mông Đít cai trị không có tiên sinh.
Sách
báo tham khảo thì không có. Tư liệu,
công
liệu,
tài
liệu
thì cũng không, chả lẽ bó tay? Thế
là tôi lên đường “một
chắc” bằng hai
bàn tay không.
Trước
khi đi vào thẳng vấn đề, chúng
tôi xin vòng vo ra ngoài lề một
chút, bản thân gia đình chúng
tôi ở tỉnh Quảng Yên (trước
là Quảng An Châu) rồi
là Hồng Quảng, rồi là Quảng Ninh bây giờ là Hạ Long.
1/3 tỉnh này
có Châu Vạn Ninh (tức
là Móng Cái)
là vủng đất tiếp
giáp với Quận Đông Hưng (Tông
Hưng) của
tỉnh Quảng Tây, đất này ngày thời nhà Đại Lý của
ta cho
dân Nùng (bộ
hạ của quốc vương Nùng Trí Cao đánh nhau với nhà Tống
bị thua tạm trú)
y như thời nhà Nguyễn cho di thần nhà Minh định cư ở
Miền Nam vậy. Muốn
tìm ra ngọn nguồn của Mr “Một
Trương” mà tìm trong tư liệu thì
đến tết Congo cũng chưa chắc tìm ra manh mối, mà
phải nói cái chuyện tiếng Ba
Tàu.
Dân
Nùng là dân thuộc
tỉnh Quảng Đông, nhưng định cư ở đất Việt Nam sát
nách ngay biên giới tỉnh Quảng Tây (tức
Quảng Si). Tuy
ở đâu thì người Nùng cũng nói giọng và tiếng Quảng
Đông (pha
chút tiếng địa phương)
và người Ba
Tàu vốn là dân đa
văn
hóa
nói sao cũng hiểu được, ví dụ:
Về
nhà ăn cơm: “Xực phàn
pán
nhể”.
Nguyên
chữ
là: “Xực phàn
hồi
gia”.
Dịch
nghĩa là: “Ăn cơm
về
nhà”.
Hiểu
theo chữ Việt là “Về nhà
ăn
cơm”.
Nhưng
người Ba
Tàu thì “pán
nhể”
hay “pán
sẻ”
cũng có nghĩa là “về
nhà”,
mà “xực
phàn”,
“xực
phan”
hay “xực
phạn”
cũng đều có nghĩa là ăn. Chữ
“hành”,
chữ
“hàng”,
chữ “hãng”
đều là một
chữ, tùy theo nó đi với ai mà thành ra “ngân
hàng”,
“bộ
hành”,
“hãng
xưởng”.
Trở
lại truyện Kim Vân Kiều của Tố Như tiên sinh, chúng tôi
nhận ra như sau khi tả về anh hùng Từ Hải:
-Gươm
đàn nửa gánh giang sơn một
chèo.
Có
nghĩa là khi đi đâu, trên vai của anh hùng Từ Hải có
vác một
thanh gươm, có bao gươm đàng hoàng,
trên bao thanh gươm eó treo một
cái đầu quang, trong cái quang có một
cái thúng đựng một
cây đàn, chưa biết là cây đàn gì. Tay
còn lại là cầm một
cái bơi
chèo.
Cướp ở bên BaTàu
cũng chia ra nhiều loại, ở trên núi
là sơn
tặc, mạn dưới sông dưới biển là thủy
tặc,
hay thủy
khấu, còn giặc lở Lương Sơn Bạc thì vừa núi vừa
sông, muốn kêu sao cũng được. Nhìn
qua bộ dạng của tướng cướp Từ Hải thì phải nhận
ngay ra rằng ông thuộc vào loại thuỷ
tặc
(giặc
ở dươi nước),
vì
trong tay thủ sẵn một
cái “bơi
chèo”.
Không rõ khi chưa xuống nước
hành sự nghề thủy
khấu
thì trên cạn tiên sinh dùng thứ vũ khí gì? Theo
sự suy đoán riêng của chúng tôi thì lúc đó Từ Hải
dùng một ngọn côn
dài 6 thước Tàu, bằng 2 thước Tây, làm vũ khí
tùy thân, Côn hay gậy
hay trượng
là
một loại vũ khí gọi
thì khác nhưng chỉ là một
thứ, có
khi bằng gỗ, có khi bằng sắt. Các
vị đại sư thì gọi nó là thuyền
trượng
như trường hợp của Lỗ Đề Hạt, hoặc thêm cái ngù
đầu con rồng ở trên của Kim Hoa bà bà thì là long
trượng, của Dương Quá thì là thiết
huyền
trượng,
nói nôm na là chiếc
gậy.
Tiếng
Ba
Tàu thì chữ Trưởng (lớn),
chữ Trường (dài)
cũng chỉ là một
chữ, thành ra Trương, Trượng, cũng
chỉ là một
chữ mà thôi. Khi
làm sơn
tặc
(tức
giặc
trên núi)
thì anh hùng Từ Hải dùng
tay cầm trượng,
gọi là “Một Trượng”. Trượng
này trung bình nặng từ 50 ký lô trở lên, không ai hai tay
cầm hai
trượng. "Một Trượng" hay "Một Trương" giống
y nhau. Sau
khi chuyển địa bàn làm ăn từ núi
xuống nước
thì dẹp trượng mà dùng bơi chèo, tức
“Một
Chèo” nhưng thiên hạ quen gọi Từ Hải là “Một
Trượng” hay “Một
Trương” nó quen miệng
rồi, mặc dù bây giờ người anh hùng đã chuyển vũ khí chuyên dùng là chèo.
Giang sơn một
chèo.
Các
bậc thức
giả, ngủ
giả có vị nào cần dậy bảo xin email về địa chỉ
sau: chuvmien@yahoo.com.