Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Tuesday, March 12, 2024

ALBUM LỜI VỌNG CHÂN MÂY - Thơ Nhã My, nhạc Trần Nhàn


          

                                             Nhà thơ Nhã My


 


READ MORE - ALBUM LỜI VỌNG CHÂN MÂY - Thơ Nhã My, nhạc Trần Nhàn

VŨ TRỤ THÁI HÒA - Lê Quang Thái

 

Tác giả LÊ QUANG THÁI

(1942-2020)

Nguyên quán: Cổ Thành, Thị xã Quảng Trị,

-Cử nhân Giáo khoa Việt văn (Đại học Văn khoa Huế)

-Cử nhân Giáo khoa Triết học (Đạo học Văn Khoa Huế)

-Cao học Tâm lý Giáo dục (Đại học Sư phạm Sài Gòn).



VŨ TRỤ THÁI HÒA

Lê Quang Thái


"Thái bình, thành bình là hoài bảo lớn lao và lâu dài mà xưa nay mỗi người, mỗi nhà, mỗi làng mạc hoặc thôn xóm và cả đất nước đều chung lòng mong ước..."

Tứ Phương viết vũ

Tự cỗ lai kim viết trụ       

 Thái bình, thành bình là hoài bảo lớn lao và lâu dài mà xưa nay mỗi người, mỗi nhà, mỗi làng mạc hoặc thôn xóm và cả đất nước đều chung lòng mong ước.

Tại Kinh sư, bốn phương đều vọng về cửa khuyết, cửa không của thủ phủ Thuận Hóa xưa, cố kinh Phú Xuân - Huế đã một thời rạng rỡ với danh thơm: Đất Thừa Thiên Huế trai hiền, gái lịch…




Cảnh tượng trời đất thanh bình được biểu hiện rõ nét và giàu ý nghĩa của câu đối và được khảm sành sứ rất thần thái ở hai trong 4 trụ biểu trước công viên Thương Bạc.

Thuở ấy, người sông Hương mỗi ngày mỗi thơm lên, đẹp thêm theo kế thuật trồng người: "Thơm cây, thơm rễ, người trồng cũng thơm"

Nét tinh anh trong thuật trồng người như đã toát lên từ nét chữ và ý nghĩa hai vế của câu đối thời danh và Hoàng giáp Nguyễn Khắc Niêm sáng tác và được chạm khắc năm Đinh Sửu, 1937: 

VŨ KHÍ THÁI HÒA THIÊN NGỌC BẠCH Y  THƯỜNG  HỘI

KINH SƯ THỦ THIÊN ĐỊA THÀNH DANH VĂN VẬT SỞ ĐÔ

Tạm Dịch:

Cảnh đẹp Thái Hòa, áo xiêm lụa trắng khai mở hội,

Đất lành Kinh Sư, tiếng tăm văn vật rạng thành đô

                                                                              (Thành Trai)

Xưa, làng nước mở hội đầu xuân được gọi là Đại hội như sách "Quốc Văn Giáo khoa thư" đầu thế kỷ 20 đã chú thích tỏ rõ. Xuân này, Xuân Canh Dần đầu tiên phục hồi lễ cầu QUỐC THÁI DÂN AN, mở đầu cho kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Tuyệt Diệu và hạnh phúc thay!

Các thuật ngữ được dùng từ tứ tự thành ngữ "VŨ TRỤ THÁI HÒA" mới đọc qua tưởng chừng như ngôn ngữ thế tục; nhưng ngẫm suy theo lối tĩnh tâm mới nhận ra là ngôn ngữ thiền gia. Hoàng giáp Nguyễn Khắc Niêm không nói thiền, viết thiền mà sâu lắng vẫn "rất thiền" để bay khoát vào thiên nhiên và vũ trụ nhiệm mầu.

Là đồng bào Phật tử, chúng tôi đã cảm nhận và trực nhận ra được lẽ diệu kỳ của văn chương chữ nghĩa long ẩn, bàng bạc, phảng phất "Hương Đạo" và "Chất Thiền" qua hình ảnh và hình tượng lúa DE An Cựu, sen Hồ Tịnh hoặc nữa là Hương thơm Thạch Xương bồ xuất phát từ hai nguồn Tả Trạch và Hữu Trạch hòa loảng vào hai giồng chảy sông Hương và sông Bồ đều hợp lưu qua ngã ba Sình đổ ra biểu Đông bát ngát nghìn trùng. Đó là những  đặc sản của Phước địa Thuận Hóa mà không nơi nào có được.

Kế thế Hoàng giáp Nguyễn Khắc Niêm, năm 1941 cụ Vân Bình Tôn Thất Lương viết "Hương Giang Hành", thể kể tài "hành" của văn học cổ điển với lời viết thâm hậu:

"Nhúng ngòi bút sắt ghi trên giấy,

Phong thơ gởi tặng Thạch Xương Bồ

Bền lòng hãy giữ tánh cao cô

Ở với nước trong nơi suối thẳm,

Đừng ra lây đục với giang hồ"

Chúng tôi trộm nghĩ và xem đây như thêm một "thông điệp" của người xưa, nhiều thế hệ đi trước ân cần nhắn gởi, tuyền  trao lại cho người "Người Sông Hương" hôm nay.

                                           

                                                                     L.Q.T

Nguồn: lieuquanhue.vn, 02/06/2012

 

 

READ MORE - VŨ TRỤ THÁI HÒA - Lê Quang Thái

MỘT BÀI CA DAO VIỆT NAM ĐƯỢC CHUYỂN SANG HÁN NGỮ - Chuyện phiếm của La Thụy



La Thụy đọc trên báo SỐNG của Chu Tử trước 1975 một bài viết ngộ nghĩnh. Bây giờ chỉ còn nhớ một đoạn ngắn về việc chuyển ngữ bài ca dao Việt Nam sang chữ Hán. Post lên chia sẻ anh chị em đọc cho vui...
Bài ca dao nói về “sự đời em cái lá đa” đó mà...
 
“Sáng trăng em ngỡ tối trời
Em ngồi em để sự đời em ra
Sự đời như cái lá đa
Đen như mõm chó, chém cha sự đời.”
 
Bài ca dao được “dịch” sang chữ Hán như sau:
 
“Minh nguyệt ngộ u dạ
Ngã tọa phô thế sự
Thế sự như đa diệp
Hắc như khuyển khẩu
Trảm phụ thế sự...”
 
明月悞幽夜
我坐舖世事
世事如栘叶 
黑如犬口
斬父世事
 
(Ghi lại theo trí nhớ bài viết của Chu Tử đăng trên báo Sống trước 1975)
*
Bài ca dao chỉ gồm 4 dòng lục bát (28 chữ), nhưng “được” chuyển sang thể ngũ ngôn đến 5 dòng (trong đó 2 dòng cuối chỉ có 4 chữ mỗi dòng), nên chỉ gọn 23 chữ thôi. Chữ “đa” (trong cụm từ “lá đa”) chỉ có trong tiếng Việt nên người dịch mượn chữ  (đa) trong Hán tự có nghĩa là “nhiều” rồi thêm bộ mộc để viết thành . Âm Nôm chữ  đọc đúng là “đa”, nhưng  có âm Hán Việt là “di” nghĩa là cây “đường lệ” 棠棣 (theo truyền thuyết).
Người dịch chỉ cà rỡn dịch thôi. Khi chữ Hán không có từ ngữ viết về lá đa, nên chúng ta tạm chấp nhận vậy.


*
Công Tử Hà Đông Hoàng Hải Thủy cho rằng:
 
“Chỉ trong 4 câu thấy có ba hình ảnh gợi cảm: Sự đời, Lá Đa, Mõm Chó. Chuyện théc méc là ‘Sự đời, Lá Đa, Mõm Chó’ ba cái có tội gì mà chúng bị người đe dọa ‘chém cha.’ Oan thay cho Lá Đa.
Em phải mặc váy thì khi em ngồi, sáng trăng suông em tưởng tối trời, em mới để cái sự đời của em ra được. Em mặc quần thì vô phương. Phải viết rõ là em gái quê em mặc váy, em ‘không để nó ra’, nó là ‘cái sự đời’ của em, nó vẫn ở trong đó nhưng vì em ngồi hớ hênh - ngồi bệt mà dạng háng, tức banh hai chân ra - nên người ta nhìn vào, người ta thấy ‘nó’. Viết lại: Em mặc quần thì vô phương. Em mặc váy mà em đứng em cũng không thể để cái sự đời của em ra được.
Đến đây có vấn đề ‘Váy và Quần Con Gái, Đàn Bà’. Sử ghi: Ngày xưa, đàn bà Bắc kỳ mặc váy. Bắc Kỳ đây là từ Ải Nam Quan vào đến tỉnh Quảng Bình. Viết cách khác: từ Sông Gianh trở ra bắc. Từ Quảng Bình vào nam, đàn bà mặc quần. Ngày xưa đây là thời Thực Dân Pháp chưa đến nước Việt Nam. Cũng Sử ghi: Năm 1882 Vua Minh Mạng hạ chiếu, tức ra lệnh:
‘Cấm đàn bà mặc váy’, lại tức: Đàn bà Bắc kỳ phải mặc quần.
 
Tháng Sáu có chiếu vua ra
Cấm quần không đáy, người ta hãi hùng.
Không đi thì chợ không đông.
Đi thì bóc lột quần chồng, sao đang.
 
Lệnh của Vua Minh Mạng không được nữ thần dân Bắc kỳ tuân theo. Vua cấm đàn bà mặc váy, đàn bà Bắc kỳ vẫn cứ mặc váy. Những năm 1947 đến 1950, kẻ viết những dòng chữ này sống trong những làng quê ba tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Phúc Yên, thấy tận mắt 90/100 đàn bà miền quê mặc váy. Chỉ môt số cô gái trẻ, sinh sau năm 1930, mới mặc quần.
 
Nhắc lại và nhấn mạnh: Chỉ khi mặc váy đàn bà, con gái mới để cho người đời nhìn thấy cái ‘Sự Đời Lá Đa’. Phụ nữ Á, Phụ nữ Âu Mỹ mặc váy cũng để hở ‘Sự Đời’ như nhau. Chỉ có khác là phụ nữ Âu Mỹ mặc slip, phụ nữ Á châu ở trần. Bà Hillary Clinton khi là First Lady có lần – mặc váy – ngồi hớ hênh bị anh Phó Nháy chụp ảnh bà để lộ cái slip. Từ đó người ta thấy bà Hillary Clinton chuyên mặc quần.
(Theo Công Tử Hà Đông Hoàng Hải Thủy)
 
Nhà nho như Tam Nguyên Yên Đỗ cũng mần thơ nói về cái “sự đời” đó
 
“Đàn bà con gái sắn quần lên
Cái gì trăng trắng như con cúi”
(Nguyễn Khuyến, Chỗ Lội Làng Ngang)
 
Không biết Bùi Giáng vì đọc bài ca dao này nên mới phóng bút chăng:
 
“Bây giờ em để quần đâu
Cỏ trên mình mẩy em sầu ra sao”
 
Hàn Mặc Tử cũng mần thơ như ri:
 
“Tiếng ca ngắt. Cành lá rung rinh
Một nường con gái trông xinh xinh
Ống quần vo xắn lên đầu gối
Da thịt, trời ơí trắng rợn mình…”
          (Thi tập Gái Quê, bài Nụ Cười)
 
Bích Khê cũng không thua chi:
 
“Và ô kìa một tòa hoa nghiêm động
Tay run run hãm lại cánh tình si
Hai tay nàng đã nở ngọc lưu ly
Hai chân nở màu sen ẻo lả
Cho tôi nàng, hãy cho tôi tất cả !…”
                        (Tranh Lõa Thể)
 
Viết lông bông cho vui. Quý bác nào không thích thì bỏ qua nhé!                                                                                        
La Thụy

READ MORE - MỘT BÀI CA DAO VIỆT NAM ĐƯỢC CHUYỂN SANG HÁN NGỮ - Chuyện phiếm của La Thụy