Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Wednesday, December 18, 2019

BÌNH LUẬN VĂN HỌC: LƯƠNG CHÂU TỪ - KHÚC HÙNG CA CHIẾN TƯỚNG - MacDung

Tác giả MacDung


BÌNH LUẬN VĂN HỌC:
LƯƠNG CHÂU TỪ -  KHÚC HÙNG CA CHIẾN TƯỚNG
MacDung

       凉州
  (Lương Châu Từ)
葡萄美酒夜光杯
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
            欲飲琵琶馬上催
Dục ẩm tì bà mã thượng thôi
            醉臥沙場君莫笑
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
            古來征戰幾人回
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.


   王翰 (Vương Hàn)


Lương Châu Từ là một bài thơ ghi dấu ấn cùng tôi với những năm tháng còn ngồi ghế nhà trường. Lúc ấy sách, báo, điều kiện thông tin thiếu thốn nên thỉnh thoảng chỉ nghe trong tuồng hát có nhắc đến. Trong lễ hội tại trường, học sinh dẫn chương trình đôi khi dùng hai câu cuối minh chứng cho diễn thuyết. Chỉ hai câu:
“Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.”
Đã đem đến cảm xúc muốn rơi lệ lại không sao giải thích được. Nghe thấy hay! Nhưng xuất xứ bài thơ và tác giả thì hoàn toàn mù tịt, muốn tìm hiểu chẳng biết hỏi ai…!
Lớn lên trong bôn ba miếng cơm manh áo, thói quen đọc vẫn theo tôi suốt mấy mươi năm. Rồi một ngày có trong tay tuyển tập thơ Đường, tôi mới biết đến danh thi Vương Hàn với Lương Châu Từ sống vượt thời gian…
Tôi viết bài này với góc nhìn hoàn toàn khác, không phải vì chứng minh cho bản thân, cũng chẳng muốn đi ngược nhiều nhận định lịch sử để làm nổi trội. Đơn giản bài viết chỉ mang tính văn học, không phải khảo luận và càng thiếu sụ nghiên cứu học thuật vốn xa tầm tay.
Động lực thúc đẩy tôi hoàn thành bài viết với góc độ “bình luận”, hy vọng cung cấp một phần hiểu biết nhỏ nhoi cho văn học có cách nhìn đúng đắn hơn về danh tác Lương Châu Từ. Bất cứ ai đem lòng giao cho con chữ, thiết nghĩ khi qua đời vài trăm năm sau, cũng không muốn hậu thế nhìn đứa con tinh thần từng nâng niu một cách sai lệch…


  Bản dịch cá nhân:
“Rượu ngon Bồ Đào lóng lánh bát
  Uống yêu bên Tỳ Bà ngựa đã giục lên yên.
  Say nằm trên chiến trường quân sĩ (xem thường) cười chê
  Xưa lại đây, chiến tranh nguy hiểm mấy người trở về."


      Ngay câu thứ nhất Lương Châu Từ đã lắm cách luận bàn.


葡萄美酒夜光杯,
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi”


Bồ Đào là tên một danh tửu của người Trung Hoa cổ, bách tính thường dân được nếm qua chẳng mấy người. Ở đây tác giả sử dụng từ “Mỹ Tửu” nhất định là rượu vua ban cho chiến tướng trước lúc lâm trận tiền. Thứ dân có được loại rượu này uống, cùng lắm chỉ gọi “danh tửu”, nói là “mỹ tửu” e rằng khó giữ được mạng. 
Mỹ Tửu chỉ có trong cung đình nội viện, là cách gọi riêng cho giới quý tộc cấm cung.
“Dạ Quang” làm người đọc liên tưởng đến loại ngọc phát sáng trong đêm, được làm thành bát để uống rượu. Nhưng “dạ quang” còn một cách nghĩ là: hắt sáng. “Dạ” là buổi tối, nơi tối. “Quang” là ánh sáng. Nếu chúng ta cho Dạ Quang chính là loại ngọc có thể phát sáng khi rót rượu vào thì từ Mỹ Tửu hoàn toàn mất hết ý nghĩa. Đã có bát Dạ Quang thì rượu nào rót vào không lóng lánh sáng!? Như vậy Mỹ Tửu không còn giá trị gì!...
Điều này khiến chúng ta liên tưởng khi vua ban thưởng cho chiến tướng lập công lớn “ba chung mỹ tửu”. Lúc đó có thể là chung “dạ quang”, “phỉ thúy”… Nhưng được vậy, tất các bậc khai quốc công thần ngày ngày họp triều kia! Còn những tướng lĩnh xông pha trận mạc cùng lắm chỉ gặp “đại tướng”, chứ sao đối diện được “mặt rồng” để thưởng thức loại chén rượu kỳ hiếm trong thiên hạ… 
Lai lịch thi gia Vương Hàn bất minh, chưa có tài liệu nào nói rõ. Chỉ biết ông xuất hiện vào sơ Đường trước công nguyên. Vậy, với khoảng lịch sử còn lạc hậu, liệu các nhà luyện kim có thể cho ra một bát rượu bằng ngọc? Nếu có, chắc cũng chẳng đẹp đẽ gì so với kỹ nghệ ngày nay…
Từ Bôi (杯) thuộc bộ Mộc (), nghĩa gốc của nó tức là “bát gỗ”. Vậy, nếu ta coi Bôi là “bát gỗ” thì Mỹ Tửu rót vào lóng lánh sáng, quả đúng là loại rượu trân quý. Còn như ai thích “bát ngọc Dạ Quang” thì loại rượu được uống không mấy đặc sắc rồi!? Thứ nữa, nếu giữa cung đình chỉ “ba chung mỹ tửu” lại không sao! Nhưng uống kiểu Lệnh Hồ Xung cao hứng trên Ngũ Bá Cương làm luôn mấy mươi bát với anh hùng hảo hán thì bát Dạ Quang chắc đi tong mấy đời rồi… Và Lệnh Hồ Xung sẽ bị bắt tội, còn đâu cái đầu để sử Độc Cô Cửu Kiếm… 


          “欲飲琵琶馬上催.
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi.”


Từ Dục (欲) thuộc bộ Khiếm (欠). Nghĩa Hán – Việt trong một số từ điển xếp Khiếm (欠) là động từ, ý “vươn dậy”. Bên trái chữ là từ Cốc (谷), có nghĩa khu trũng, lõm vào giữa núi hoặc hai bên núi có suối chảy qua. Dĩ nhiên “cốc” có người ở, nhưng biệt lập với số đông. Từ Dục (欲) bộ Khiếm chỉ tham muốn, yêu muốn, tình dục. Nó khác với Dục (慾) bộ Tâm (心), chỉ chung sự “ham muốn”.
Cơ sở hình thành chữ Hán vốn lấy Tượng Hình, Chỉ Sự, Hội Ý làm nét đặc trưng, trước khi Lục Thư ra đời vào thời Hán với Thuyết Văn Giải Tự của Hứa Thận. Vậy khi Hội Ý từ Dục (欲), rõ ràng chỉ sự Ham Muốn Dục Tình trong khu biệt lập dành cho danh tướng hưởng thụ trước lúc xuất quân…
Đã có Mỹ Tửu tức có Giai Nhân. Trước khi đẩy người vào chỗ tử, các bậc tướng quốc khanh hầu trong lịch sử Trung Hoa tha hồ kỳ xảo (Ngày nay gọi là tâm lý học.) Thái tử Đan đối xử Kinh Kha không gì chê nổi. Công tử Quang biệt đãi Chuyên Chư! Tín Lăng Quân – Ngụy Vô Kỵ tiếp anh hàng thịt… Tất cả là những bậc tài danh về kỳ xảo đoạt nhân tâm… 
Vậy chiến tướng sắp vào chỗ chết, nhà vua tiếc chi Mỹ Tửu và Giai Nhân có đầy trong cung cấm. Tỳ Bà (琵琶) ở đây phải hiểu theo nghĩa “tiếng đàn của giai nhân” mới hợp cảnh. Bởi theo một số ý kiến cho rằng: “Tiếng đàn thúc quân” là bất cập. Nhạc khí Tỳ Bà theo một số nghiên cứu cho rằng xuất xứ từ Ba Tư, có vào thời Tần. Vậy vào sơ Đường tất Tỳ Bà đã hiện diện. Nhưng loại nhạc cụ cung đình này thứ dân mấy người luyện tập để có cả đội nhạc hiệu, đốc thúc việc quân. Thứ nữa, cưỡi ngựa, cầm cương điều hướng, hai tay đã bận, lấy đâu ôm Tỳ Bà để khảy đàn. Thêm nữa, nói về cộng hưởng để vang xa phải có nhiều tay đàn cùng lúc. Như vậy liệu tiếng đàn còn vang động trong tiếng vó câu!?
Tín hiệu thúc quân ngày xưa thường là Tù Và hoặc Kèn Bầu. Âm thanh cộng hưởng vang xa, gây điếc tai. Nhưng những loại dụng cụ điều binh khiển tướng này nhất định là bí mật quân sự quốc gia. Cho nên vào thời Tấn, kèn bầu đã xuất hiện nhưng văn học Trung Hoa không hề nhắc cho đến cuối Minh, đầu Thanh.
Vậy nói về tín hiệu “thúc quân” không thể nào đàn Tỳ Bà mà đấy là tiếng đàn Giai Nhân theo cách Cao Tiệm Ly tiễn Kinh Kha qua sông Dịch. 
Trước cuộc chiến chưa biết sống chết ra sao Mỹ Tửu và Giai Nhân đã làm động dục tình người chiến tướng. Ham muốn, nhưng ngựa đã hí vang, thúc người ra trận.
Việc quân vốn từ cao tới thấp. Chiến tướng được biệt đãi Mỹ Tửu và Giai Nhân thử hỏi được mấy người? Vậy bên ngoài tất các vị tướng thấp hơn lo tập hợp quân vào đội ngũ. Loài ngựa mang tập quán đồng loại, thấy nhiều con khác bỏ đi tất hí vang muốn “xổ lồng”…
Chữ Thượng (上) thứ 6 trong câu 2, cùng mặt chữ, còn một âm đọc là Thướng (上). Nghĩa là: leo lên. Như bài Thướng Sơn (上 山) trong Ngục Trung Nhật Ký. Tùy vào ngữ cảnh, âm điệu, tiết tấu, người phiên âm có thể chọn từ lẫn nghĩa khác nhau. 
Từ Thôi (催) có nghĩa là: Thúc giục. Vậy “mã thượng thôi” hàm ý: Tiếng ngựa hí thúc giục (leo) lên yên.


        “醉臥沙場君莫笑,
       Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu,”


Câu này gần như sáng tỏ. Chỉ từ Mạc hàm ý Mạc Nhiên (漠 ) với nghĩa: chểnh mảng, coi thường. Như vậy hầu như có sự thống nhất về nghĩa: Say nằm trên chiến trường quân sĩ sẽ cười chê.
Lương Châu Từ giàu cảm xúc nhất ở câu kết. Đọc cứ bâng khuâng, ray rứt, như rướm lệ… Có thể câu này phản ánh đúng bản chất chiến tranh tang tóc, ly tán, sống chết chỉ cái chớp mắt nên nghẹn ngào…


          “古來征戰幾人回?
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.”


Nhiều bản dịch thoáng cho dễ hiểu là: Xưa nay chiến tranh mấy người quay trở lại.
Tôi vì bám sát nguyên tác Hán tự nên khác hơn: Xưa lại đây, chiến tranh nguy hiểm mấy người trở về."
Sự khác biệt này bởi tác giả sử dụng từ Lai (來) với nghĩa: Lại. Nếu như thi gia Vương Hàn xài từ Kim (今) trong Cổ Kim (今) với nghĩa: Xưa nay, thì không phải bàn rồi!
Khi đứng trên chiến trường với câu đánh giá: Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi. Nó xác định vị trí hiện tại trên chiến trường sát thương nhau bằng gươm, giáo… sống chết do lanh tay lẹ mắt và phán đoán tình huống.
Còn nếu dùng từ Cổ Kim thì thật mênh mông. Tôi đang viết bài này ở thì hiện tại, vẫn coi là: Nay. Nhưng… Nay của tôi chiến tranh đã khác biệt, không còn là gươm giáo… Thay vào đó là vũ khí hiện đại, một cái nhấp tay đã gây tử vong vô số, đâu cần phải đối mặt nhau trong cuộc chiến lạc hậu. Chiến tranh hiện đại không cần “đi mấy kẻ quay về”!? Ở nhà cũng chết do đạn lạc, bom rơi… Nhiều khi người không tham gia, chết chẳng thua kém gì kẻ thực chiến… Thật tàn khốc…
Tướng lĩnh trong chiến tranh hiện đại được bảo vệ an toàn hơn. Ngồi hầm nhiều tầng tránh phóng xạ. Điều khiển qua màn hình vệ tinh. Nếu cần bay qua nước khác, vẫn chỉ đạo cuộc chiến thông qua các phương tiện giao tiếp hiện đại. Chỉ dân đen là lãnh đủ mọi thứ…!
Từ Cổ Lai sử dụng trong Lương Châu Từ phải xem là đắc vị, sáng âm, lại giới hạn một chân lý tương đối khi nói đến thực tại chiến trường, sinh tử gang tấc.
Từ Lai khác tính chất với Hồi () với nghĩa: Trở lại nơi cũ.
Câu kết Lương Châu Từ có một từ sinh rắc rối. Đó là từ Kỷ () với nghĩa: Nguy hiểm. Nhiều người lầm tưởng với Kỷ () trong Tri Kỷ (知己) nghĩa là "mình”.
Chính vì kết câu phản ánh quy luật chiến tranh thời đó quá bi đát, nên nhiều nhận định cho rằng: Lương Châu Từ là Khúc Bi Ca Chiến Tranh. Nhưng với góc độ bài viết này tôi nghĩ ngược lại. Lương Châu Từ là Khúc Hùng Ca Chiến Tướng. Hiểu rõ quy luật chiến tranh nên danh tướng phải tuân thủ quân kỷ, tránh sa đà vào tửu sắc trước lúc lâm trận. Chiến tranh sống chết trong đường tơ mà còn say nằm trên chiến trường là cầm chắc cái chết. Vì biết giữ quân kỷ làm gương, nhất định dưới trướng quân sĩ sẽ noi theo. Khi giao chiến tại trận tiền tất thắng nhiều hơn thua. Và dĩ nhiên, hạn chế tử vong như điều tất yếu…
Đúng ra phải thêm vào cho đầy đủ: Lương Châu Từ - Khúc Quân Kỷ Hùng Ca Chiến Tướng.
Có thể vì điều này, cho đến nay danh tác Vương Hàn vẫn ngạo nghễ trước thời gian…


VL – 18.12.2019


Lời bạt: Tôi thực hiện bài viết này khi xa kệ sách cá nhân, nên có nhiều điểm không thể đối chiếu với tự điển Đào Duy Anh và một số tác phẩm nghiên cứu khác. Mọi cái viết qua trí nhớ và kiểm chứng bằng google. Phần mềm sử dụng là tự điển Hán – Việt của tác giả Thiều Chửu. Trong bài viết nếu có chi thiếu sót mong danh sĩ khắp nơi và bạn đọc bỏ quá cho.


Nay kính,
MacDung






READ MORE - BÌNH LUẬN VĂN HỌC: LƯƠNG CHÂU TỪ - KHÚC HÙNG CA CHIẾN TƯỚNG - MacDung

CHÚC MỪNG NĂM MỚI - Mặc Phương Tử


READ MORE - CHÚC MỪNG NĂM MỚI - Mặc Phương Tử

NÔM NA LÀ CHA MÁCH QUÉ - Tuệ Chương Hoàng Long Hải


       
            Tác giả Tuệ Chương Hoàng Long Hải



NÔM NA LÀ CHA MÁCH QUÉ

Nhân dịp “Viện Việt Học” vừa cho xuất bản “Tự Điển Chữ Nôm Trích Dẫn”
                                                     
Lời nói đầu:

Khi còn ở trong nước, tôi có định kiến với những người trẻ lớn lên ở hải ngoại. Họ học ở nhà trường Âu Mỹ, nơi có bết bao nhiêu cái hay cái đẹp để tìm hiểu. Chỉ nói riêng các nhà văn Pháp trong “Thế Kỷ Ánh Sáng” cũng quá đủ cho những ai muốn tìm hiểu về dân chủ, tự do, nhân quyền, cũng như học thuật, tư tưởng hiện đại. Ở Mỹ, đọc Jack London, ai không say mê. Còn nói tới John Steinbeck hay William Faulkner, Hernest Hemingway, những nhà văn lớn được giải Nobel, với bao nhiêu tác phẩm của họ, chỉ mới đọc thôi, cũng đủ “mệt”, nói chi tới những công trình nghiên cứu về họ, bỏ thì giờ học và nghiên cứu về họ thì coi như mất hết cả một thời mê đọc sách, nói sao cho hết. Vậy mà khi tới trại tỵ nạn, tôi suýt giật mình vì một bản tin nhỏ đăng trên tời “Diễn Đàn Tự Do” xuất bản ở Virginia, về một cô sinh viên đang chuẩn bị luận án tiến sĩ . Cô ta dự tính về Việt Nam để nghiên cứu về Nguyễn Bỉnh Khiêm cho luận án ấy. Dưới con mắt của Công An [], có thể họ cho rằng cô nầy chẳng nghiên cứu gì hết, chỉ là nại cái cớ để về Việt Nam với sứ mạng nào đó do CIA giao phó.
Tôi không nghĩ như vậy. Văn học cổ Việt Nam, tuy chịu ảnh hưởng văn học Tầu khá đậm nhưng không phải là không có những cái đặc sắc của nó. Thậm chí còn hay hơn cái gốc mà nó chịu ảnh hưởng.
Người Việt Nam học cổ văn, ít ra, người ấy cũng có đọc truyện Kiều. Có người mê Kiều là đằng khác. Truyện Kiều của Nguyễn Du là một tác phẩm chữ Nôm có nguồn gốc bên Tầu viết bằng chữ Hán, nhưng truyện Kiều của tay hay quá, hay hơn truyện Kiều của Tầu nhiều lắm, coi như một biểu tượng đặc sắc của văn học Việt Nam, có thể góp mặt với các tác phẩm nổi tiếng khắp năm châu bốn biển. Trong khi đó truyện Kiều của Dư Hoài bên Tầu thì chẳng ai đánh giá cao. Tỳ Bà Hành cũng vậy. Không thiếu người “mê” Tỳ Bà Hành. Theo nhiều nhà Nho thì Tỳ Bà Hành chữ Nôm của Phan Huy Vịnh hay hơn Tỳ Bà Hành chữ Hán của Bạch Cư Dị khá xa. Thế hệ ngày nay chịu ảnh hưởng văn học Âu Mỹ khá đậm,, nhứt là văn học Pháp, không thiếu người bắt chước, mô phỏng, dịch hay “chạy” theo, cũng “dịch hạch”, cũng “nôn mửa”, cũng “phi lý” nhưng xem ra các “đệ tử” bên ta thua “sư phụ” bên Tây nhiều lắm, không như người xưa, có theo đó mà vượt qua đó. Đủ biết chúng ta cần học tổ tiên ta thêm nhiều hơn nữa, làm sao để như người xưa, vượt qua những khuôn vàng thước ngọc do người đi trước đã bày ra.
Tôi từng có cái may mắn mười năm dạy cho học trò những tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Thánh Tôn, Đoàn Thị Điểm, Ôn Như Hầu ở các lớp Đệ Ngũ và Đệ Tam, nên vì chén cơm mà cố tìm hiểu các tác giả nầy.
Cái đặc sác bậc nhứt trong thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm là “vô vi” của Lão. “Vô vi” là không làm cái gì trái với đạo Trời, với thiên nhiên: “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá, Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.” Về ăn thì, mùa nào, trời cho cái gì, ăn cái đó, không bày biện phức tạp, cầu kỳ. Về chơi “Xuân tắm hồ sen hạ tám ao” thì chính là điều tự nhiên theo thiên nhiên vậy. Nguyễn Bỉnh Khiên là bậc “đạt nhân quân tử”, khi gặp thời thì giúp vua trị nước, gặp lúc nịnh thần lông hành thì cáo quan về “ngao du sơn thủy”, không vì cái công danh mà ràng buộc thân mình. Chưa kể khi nói tới Trạng Trình mà không nói tới “Sấm Trạnh Trình” thì sự thú vị mất đi nhiều lắm.
Bản tin trên tờ “Diễn Đàn Tự Do” ám ảnh tôi 15 năm, nhất là bây giờ xuất hiện nhều bài viết bàn về chữ Nôm trên các trang Web. Chữ Nôm là chữ của người Việt Nam, nhưng từ khi có chữ Quốc ngữ, các tác phẩm chữ Nôm được viết lại bằng chữ Quốc ngữ, khiến có người quên mất, tưởng như không có sự xuất hiện của chữ Nôm một thời gian dài trong lịch sử văn học nước ta. Do vậy, tôi thấy việc nghiên cứu chữ Nôm là cần thiết. Văn học chữ Nôm là một nền văn học lớn của người Việt Nam, cần tìm hiểu lại từ đầu. Đọc nó, những bài thơ như “Vua dụ Vương Tường gả cho chúa Thuyền Vu”, “Vua Trần Trùng Quang tiễn Nguyễn Biểu đi sứ” hay bài văn Nôm đầu tiên, bài “Văn Tế Cá Sấu của Nguyễn Thuyên”… sẽ thấy rằng, cách nay cả ngàn năm mà sao văn thơ chữ Nôm hồi ấy hay như thế!!!!

                                      Tuệ Chương Hoàng Long Hải

Chữ Nôm bị coi khinh?

Thân phụ tôi là người sinh ra vào năm thứ ba của thế kỷ 20 nên từ khi còn trẻ ông đã được nội tổ tôi cho học chữ Nho. Khi tôi mới lớn, khoảng những năm đầu 1940, tôi thấy ba tôi rất kính trọng chữ Nho mà ông thường gọi là “chữ của thánh hiền”. Thấy một tờ giấy có chữ Nho, dù là giấy gói những bao hương (nhang) hay tờ giấy gói trà “Thiết Quan Âm” của mấy tiệm ba Tàu, ba tôi cũng lượm lên đốt chớ không cho vào hố rác bao giờ. Sau nầy, hiểu biết lịch sử về giòng họ tôi, tôi cho việc ấy là bình thường.
Thế thì chữ Nôm, trông qua cũng giống như chữ Nho là của ai, do ai sáng tạo ra, vậy mà tôi từng nghe người ta nói, có khi được ghi lại trong sách câu “Nôm na là cha mách qué”. Gọi mách qué là có ý chê, không tôn trọng nó như “chữ của thánh hiền”. Nó không là “chữ của thánh hiền” sao?
Trong cuốn “Tiêu Sơn Tráng Sĩ” của Khái Hưng, có đoạn tả khi nhà Tây Sơn cai trị, vua Quang Trung ra lệnh bắt phải dùng chữ Nôm trong văn thư chiếu biểu thì có môt sĩ phu miền Bắc, khi đọc một bố cáo của chính quyền viết bằng chữ Nôm, nói rằng: “Dốt, dốt hết! Từ vua chí quan đều dốt hết.” Ý anh ta nói rằng vì dốt nên mới dùng chữ Nôm, không dám dùng chữ Hán.
Khái Hưng, nói cho đúng hơn là vị sĩ phu miền Bắc nói trên sai rồi. Vua Quang Trung, tức Hồ Huệ, khi còn nhỏ, được cha mẹn mời thầy về dạy chữ Nho cho cả ba anh em Nhạc, Huệ, Lữ đấy chứ! Ông ta đâu có không biết gì về chữ Nho đâu! Tuy nhiên, một điều khá rõ là vua Quang Trung rất có tinh thần độc lập dân tộc. Ông vừa đánh cho quân Thanh một trận chạy dài, nhưng trong lòng chưa hết tức giận “loài cẩu trệ”. Ông còn muốn đòi lại Quảng Đông, Quảng Tây thì việc ông bắt dùng chữ Nôm là một phương cách để người Việt biết và giữ tinh thần độc lập, không muốn cái gì cũng phải phụ thuộc vào thiên triều.
Từ những suy nghĩ từ thời thơ ấu đó, tôi viết bài nầy nói sơ về việc hình thành chữ Nôm, tại sao chữ Nôm bị cho là “mách qué” và tôi sẽ giới thiệu vài bài thơ Nôm đầu tiên trong văn học nước ta. Quí độc giả sẽ ngạc nhiên, tại sao gần một ngàn năm trước, tổ tiên chúng ta đã có những bài thơ Nôm hay như vậy!
Gọi là Nôm là để phân biệt với Hán hoặc Nho. Hán hay Nho là chữ của người Tàu, chữ Nôm là chữ của người Việt.
Trước hết, phải nói ngay rằng tiếng Nôm là biến dạng của tiếng Nam. Chữ Nho là chữ của người Hán, người phương Bắc. Vậy thì người phương Nam cũng có chữ nghĩa riêng của họ, đó là chữ Nôm (Nam). Suy ra, sở dĩ có việc hình thành chữ Nôm là do tự ái dân tộc, tự ái về lịch sử, về cá tính dân tộc và tinh thần độc lập, cũng như sự tiện lợi, phổ biến của nó. Đọc môt bài thơ Nôm, nhiều người hiểu, có khi hiểu rất rõ hơn chữ Nho.
Khi soạn ra chữ Nôm, có lẽ người xưa nghĩ rằng tại sao người phương Bắc có chữ của họ mà người Nam không có chữ của người Nam.
Thực ra, trước hoặc sau khi tiến hành việc định cư ở đồng bằng lưu vực sông Nhị Hà, người Việt (Lạc Việt) đã có một thứ chữ riêng của họ, nay chỉ còn sót lại trong một số bản Mường, một loại chữ hình dáng như “con nòng nọc”. Trong quá trình ba lần Bắc thuộc, có lẽ thứ “chữ nòng nọc” ấy vì chính sách đồng hóa của người Tàu mà biến mất trong cộng đồng những người Việt định cư ở vùng đồng bằng và trung du. Người Mường, dòng dõi rất gần với người Việt nhưng định cư ở vùng núi, chế độ cai trị của người Tàu lơi lỏng hơn, ít ảnh hưởng hơn nên hiện nay số “chữ nòng nọc” ấy còn tồn tại ở một ít trong cộng đồng người Mường.
Như vậy thứ “chữ nòng nọc” ấy biến mất trong cộng đồng người Việt định cư ở lưu vực sông Hồng? Nếu còn, tại sao họ không phát triển thành thứ chữ đó cho người Việt mà phải mượn chữ Hán để sáng tạo ra chữ Nôm?
Quả thật, cách viết và cách đọc chữ Nôm là bắt nguồn từ trong chữ Hán. Xin trích một đoạn sau đây của ông Nguyễn Hữu Vinh nói về nguồn gốc chữ Nôm:

“Chữ Nôm là một sáng tạo rất có ý nghĩa của tổ tiên cha ông ta. Sự xuất hiện của chữ Nôm là một sự kiện lớn đánh dấu sự tiến triển của nền văn hóa của dân tộc trong gần 2000 năm qua. Sự hình thành của chữ Nôm có thể do sự bức bách cần thiết trong việc giáo hóa dân chúng ở vào thời đại xa xưa, Văn Ða cư sĩ (1) cho rằng Nhâm Diên đã dùng chữ Nôm trong công việc giáo hóa quần chúng. Càng về sau, mỗi lần đất nước bị kẻ thù phương Bắc xâm lược thì trong những thời kỳ đó, chữ Nôm lại đóng vai trò tích cực hơn trong việc chống trả ngoại xâm và xây dựng đất nước.”

Chữ Nôm bắt đầu xuất hiện dưới thời Bắc thuộc. Nhưng Bắc thuộc trải qua ba thời kỳ: Lần thứ nhất từ 111 trước Tây lịch đến năm 39 sau Tây lịch; lần thứ hai từ năm 43 sau Tây lịch đến năm 544; lần thứ ba từ 603 đến 939. Cuộc đô hộ kéo dài cả ngàn năm nên làm sao biết chữ Nôm hình thành năm nào, khoảng nào?
Sử ghi rằng:
. Bố Cái Đại Vương (791).
Năm Tân Tỵ (791) quan đô hộ là Cao Chính Bình bắt dân đóng sưu thuế nặng quá, lòng người oán-giận. Khi bấy giờ ở quận Đường-lâm (bây giờ là làng Cam-lâm, huyện Phúc-thọ, tỉnh Sơn-tây) có người tên là Phùng Hưng nổi lên đem quân về phá phủ Đô-hộ. Cao Chính Bình lo sợ thành bệnh mà chết. Phùng Hưng mới chiếm giữ phủ thành, được mấy tháng thì mất. Quân-sĩ lập con Phùng Hưng là Phùng An lên nối nghiệp. Dân ái-mộ Phùng Hưng mới lập đền thờ và tôn lên là Bố-Cái Đại-Vương, bởi vì ta gọi cha là bố, mẹ là cái, nghĩa là tôn Phùng Hưng lên làm cha mẹ.
(Việt Nam Sử Lược – Trần Trọng Kim- Q. 1 tr. 60)

Ở đoạn trích dẫn nói trên, Trần Trọng Kim giải thích chữ bố là cha, chữ cái là mẹ (1). Cả hai chữ nầy đều là chữ Nôm. Nhiều sách cũng giải thích như thế để chứng minh rằng chữ Nôm đã xuất hiện từ trước đời Phùng Hưng.

Sách Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim lại chép:
“Năm mậu thìn (968), Vạn-Thắng-Vương lên ngôi hoàng-đế, tức là Tiên-Hoàng đế, đặt quốc-hiệu là Đại-Cồ-Việt, đóng đô ở Hoa-Lư….”
Trong tên nước Đại-Cồ-Việt, chử “Cồ” là chữ Nôm. Do đó, bài của ông Nguyễn Hữu Vinh có đoạn: “Có người căn cứ trên ba chữ Ðại-Cồ-Việt để cho rằng Nôm có từ thời Ðinh Tiên Hoàng.”
Ông Đào Duy Anh thì cho rằng chữ Nôm hình thành vào thời kỳ “Họ Khúc dấy nghiệp”.
Trần Trọng Kim chép công nghiệp của Khúc (Thừa Dụ) như sau:
“Ở Giao-châu, bấy giờ có người họ Khúc tên là Thừa Dụ, quê ở Hồng-Châu (thuộc địa-hạt Bình-Giang và Ninh-Giang ở Hải-Dương). Khúc Thừa Dụ vốn là người hào phú trong xứ, mà tính lại khoan hòa, hay thương người, cho nên có nhiều ngưới kính-phục. Năm bính-dần (906) đời vua Chiêu-Tuyên nhà Đường, nhân khi trong châu có loạn, chúng cử ông ấy làm Tiết-Độ-Sứ, cai-trị Giao-Châu. Nhà Đường bấy giờ suy nhược, thế không ngăn cấm được, cũng thuận cho ông ấy làm Tỉnh Hải Tiết-Độ-Sứ và gia-phong Đồng-Bình Chương Sự.”

Bửu Cầm chủ trương “chữ Nôm xuất hiện sau thời Sĩ Nhiếp và phát triển mạnh mẽ vào thời Trần”.
Nhìn chung, người ta có thể kết luận rằng chữ Nôm hình thành vào thời Bắc thuộc và phát triển vào đời Trần.
Theo tài liệu văn học, đặc biệt trong hai cuốn “Thi Văn Việt Nam” của Hoàng Xuân Hãn và “Việt Nam Thi Văn Hợp Tuyển” có ghi lại những bài thơ Nôm đầu tiên của văn học nước ta.
Những bài nầy được gom trong cuốn sách nhan là “Nghĩa Sĩ Truyện” có các bai thơ văn đặc biệt như sau:
Bài “Vua dụ Vương Tường gả cho chúa Thuyền Vu.”
Bài họa của Vương Tường.
Bài “Vua Trần Trùng Quang tiễn Nguyễn Biểu đi sứ”
Bài họa của Nguyễn Biểu
Bài “Bữa tiệc đầu người” của Nguyễn Biểu
Bài kệ của sư chùa Yên Quốc tế Nguyễn Biểu khi Nguyễn Biểu bị giặc giết ở chân cầu ngôi chùa nầy.
Còn một bài nữa là bài văn tế Cá Sấu của Nguyễn Thuyên sau đổi là Hàn Thuyên đọc trong buổi tế trên sông Nhị để đuổi cá sấu đi. Tôi không rõ bài nầy trích ở sách nào vì trong Nghĩa Sĩ Truyện chỉ chép có 5 bài nói trên mà thôi.
Giáo sư Dương Quảng Hàm trong “Việt Nam Văn Học Sử Yếu”, ghi nhận như sau:
Hàn Thuyên – A)- tiểu truyện – Ông vốn họ Nguyễn, người huyện Thanh Lâm (nay là phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương) đậu Thái Học Sinh đời Trần Thái Tôn ((1225-1257)
“Theo lời sử chép (Cm9.7. tr 25a) mùa thu tháng tám 1282 (Trần Nhân Tôn - Thiệu Bảo thứ 5), ông đương làm binh bộ thượng thư, có ngạc ngư (cá sấu) đến sông Phú Lương (tức sông Nhị Hà). Vua sai ông làm bài văn vất xuống sông. Cá sấu tự đi.
Vua cho việc ấy giống việc Hàn Dũ bên Tầu, nên cho ông đổi họ Hàn.
“Bài văn ném xuống sông để đuổi cá sấu nầy, sử không chép rõ là viết theo thể văn nào và làm bằng Hán va hay Việt văn (chữ Nôm - tg), vậy ta cũng không nên vội cho là bài văn viết bằng tiếng Nôm. Chỉ khi nào tìm thấy nguyên văn bài ấy mới giải quyết được vấn đề nầy, mà hiện nay bài ấy không thấy chép ở sách nào cả.”
(VNVHSY –DQH trang 222)

Với sự dè dặt của người viết sử, giáo sư Dương Quảng Hàm viết như trên. Tuy nhiên, nhiều người vẫn cho rằng bài văn tế cá sấu của Hàn Thuyên là bài văn Nôm. Nó mở ra thời kỳ văn Nôm trong văn học nước ta. Vai trò ấy của bài văn tế cá sấu rất quan trọng vì thời kỳ trước đó cho đến thời bấy giờ, văn Nôm chỉ xuất hiện trong giói trà dư tửu hậu mà thôi, có nghĩa là chỉ dùng để tiêu khiền. Nay, nếu nhà vua cho dùng văn Nôm trong một bài văn chính thức của triều đình, dù chỉ là một bài văn tế cá sấu, thì vai trò của văn Nôm được nâng cao nhiều lắm, lên hàng chính thức, nhất là khi người ta cho rằng chính nhờ bài văn ấy mà cá sấu đã bỏ đi. Đó cũng là một trong những cái cớ lý do làm cho văn Nôm, kể từ đời Trần phát triển hơn.
Trong Việt Nam Văn Học Sử Yếu, giáo sư Dương Quảng Hàm viết:
“Các tác phẩm đầu tiên bằng tiếng Nôm (đời Trần)
“Trong đơi nhà Trần, cứ theo sử chép thì ngươi đồng thời với Hàn Thuyên bắt chước ông làm thơ Quốc Âm (chữ Nôm – tg) nhiều. Sau đời ông, chắc cũng có nhiều nhà theo gương ông trứ tác nữa
 (VNVHSY trang 292)

(Trong bài tiếp, tôi sẽ trích dẫn và giải thích các bài thơ Nôm đầu tiên trong văn học chữ Nôm)

                                             Tuệ Chương Hoàng Long Hải

..........

(1) Có người giải thích tiếng cái không có nghĩa là mẹ mà cái là lớn như sông cái, ngón tay cái, v.v… Tiếng cái nầy bắt nguồn từ tiếng Mã Lai.
Bài đọc thêm:
        Tứ đại mỹ nhân Trung Hoa
        Trong lịch sử Trung Quốc có bốn người con gái được mệnh danh là tứ đại mỹ nhân có sắc đẹp làm khuynh đảo cả một đất nước, thay đổi cả lịch sử. Nhan sắc của họ được ca ngợi là “lạc nhạn” (chim nhạn sa xuống đất), “trầm ngư” (cá chìm sâu dưới nước), “bế nguyệt” (mặt trăng phải giấu mình) và “tu hoa” (khiến hoa phải xấu hổ).
        Theo thứ tự thời gian, bốn người đó là:
        Đại mỹ nhân trầm ngư là Tây Thi. Thời Xuân Thu, khoảng thế kỷ 7-thế kỷ 6 TCN.
        Đại mỹ nhân lạc nhạn là Vương Chiêu Quân. Thời nhà Tây Hán, khoảng thế kỷ 1 TCN.
        Đại mỹ nhân bế nguyệt là Điêu Thuyền. Thời Tam Quốc, khoảng thế kỷ thứ 3.
        Đại mỹ nhân tu hoa là Dương Quý Phi. Thời nhà Đường, 719-756.
        Chiêu Quân tên là Vương Tường, nên cũng được gọi là Vương Chiêu Quân. Nàng là con gái của một gia đình thường dân ở Tỉ Quy, Nam Quận, nay là huyện Hưng Sơn, tỉnh Hồ Bắc. Được tuyển vào nội cung vào khoảng sau năm 40 TCN, đời vua Hán Nguyên Đế (49 TCN-33 TCN). Trong thời gian ở hậu cung, Chiêu Quân chưa bao giờ được gặp mặt vua và vẫn chỉ là một cung nữ.
        Năm 33 TCN, thiền vu Hung Nô là Hô Hàn Tà đến Trường An để tỏ lòng thần phục nhà Hán, một phần trong hệ thống triều cống giữa nhà Hán và Hung Nô. Ông này nắm lấy cơ hội để đề nghị được trở thành con rể của vua Nguyên Đế. Thay vì gả cưới một công chúa cho thiền vu thì Hô Hàn Tà đã được ban cho 5 cung nữ từ hậu cung, một trong số này là Vương Chiêu Quân.
        Theo một câu chuyện trong Hậu Hán Thư thì Vương Chiêu Quân đã tình nguyện theo thiền vu này. Khi được vời đến triều đình thì vẻ đẹp của Chiêu Quân đã làm cho Nguyên Đế sững sờ và muốn thay đổi quyết định của chính mình.
        Chiêu Quân trở thành người vợ được yêu quý của Hô Hàn Tà, được phong là Ninh Hồ Yên Chi. Họ sinh được hai người con trai, chỉ một trong số đó sống sót với tên gọi là Y Chư Trí Nha Sư và một người con gái, tên là Vân, sau này là một nhân vật đầy quyền lực trong hệ thống chính trị của Hung Nô. Năm 31 TCN, Hô Hàn Tà chết, Chiêu Quân muốn trở về Trung Quốc, nhưng Hán Thành Đế đã buộc nàng phải theo tập quán nối dây của người Hung Nô và Chiêu Quân trở thành vợ của thiền vu tiếp theo là Phục Chu Luy Nhược Đề - con trai lớn của Hô Hàn Tà. Trong cuộc hôn nhân mới này nàng có hai người con gái. Sau khi chết, Chiêu Quân được táng tại “Thanh Trủng”, mộ hiện nay vẫn còn tại phía nam thành Hô Hòa Hạo Đặc, Nội Mông Cổ.
        Hòa bình giữa nhà Hán và Hung Nô đã được kéo dài trên 60 năm, tuy nhiên, sau này người ta đã không còn biết gì về các hậu duệ của Chiêu Quân.
        Kể từ thế kỷ 3 trở đi thì câu chuyện về Chiêu Quân đã được phóng tác nên như là hình tượng của một nhân vật nữ đầy bi thương trong nhiều tác phẩm thơ ca hay kịch, chẳng hạn như của Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Vương An Thạch, Quách Mậu Thiến, Mã Trí Viễn, Tào Ngu, Quách Mạt Nhược, Tiễn Bá Tán v.v.
        Câu chuyện về Chiêu Quân được gọi Chiêu Quân Cống Hồ trở thành một điển tích. Tồn tại nhiều dị bản, trong đó có nhiều chi tiết còn mâu thuẫn. Nổi tiếng hơn cả là bản kể theo những tài tiệu của nhà sử học Ngô Quân (469-520).
        Vì số cung phi trong hậu cung của vua Nguyên Đế quá đông, nên nhà vua ra lệnh cho các họa sĩ phải vẽ hình các cung phi để nhà vua chọn. Các cung phi thường lo lót tiền cho họa sĩ để được vẽ cho đẹp, mong vua để ý tới. Chiêu Quân từ chối đút lót cho họa sĩ là Mao Diên Thọ, hậu quả bức chân dung nàng thật xấu xí nên nàng không được Hán Nguyên Đế để mắt tới.
        Một hôm hoàng hậu tình cờ biết tới Chiêu Quân qua tiếng đàn lâm ly ai oán của nàng. Bà đưa Chiêu Quân tới gặp Hán Nguyên Đế. Hán Nguyên Đế ngỡ ngàng vì sắc đẹp của nàng, phong Chiêu Quân làm Tây phi. Mao Diên Thọ bị khiển trách nặng nề.
        Thời bấy giờ Hung Nô là nước lân bang thường xuyên mang quân sang quấy nhiễu. Mao Diên Thọ bị Hán Nguyên Đế quở trách, đem lòng oán hận Chiêu Quân, lấy chân dung Chiêu Quân nạp cho thiền vu (vua) Hung Nô là Hô Hàn Tà. Vua Hung Nô say đắm sắc đẹp của nàng, cất quân sang đánh, buộc Hán Nguyên Đế phải cống nạp Chiêu Quân thì mới bãi binh. Hán Nguyên Đế đành phải đem Chiêu Quân sang cho Hung Nô. Điểm này không khớp với lịch sử Hung Nô, do từ thời Hô Hàn Tà thì các thiền vu đã chịu nộp cống phẩm cho nhà Hán.
        Truyền thuyết “Chiêu quân xuất tái”, (Đi đến biên cương) nói rằng, khi Chiêu Quân đi ngang một hoang mạc lớn, lòng nàng chan chứa nỗi buồn vận mệnh cũng như lìa xa quê hương. Nhân lúc ngồi lưng ngựa buồn u uất, liền đàn “Xuất tái khúc”. Có một con ngỗng trời bay ngang, nghe nỗi u oán cảm thương trong khúc điệu liền ruột gan đứt đoạn và sa xuống đất. Từ “lạc nhạn” trong câu “Trầm ngư lạc nhạn” do đó mà có.
        Khi qua Nhạn Môn Quan, cửa ải cuối cùng, Chiêu Quân được cho là đã cảm tác nhiều bài thơ rất cảm động. Tiếng đàn của Chiêu Quân ở Nhạn Môn Quan trở thành điển tích Hồ Cầm.
        Ngôi làng quê hương của nàng ngày nay mang tên là làng Chiêu Quân. Dòng suối, nơi tương truyền nàng từng ra giặt vải trước khi được tuyển vào hoàng cung, được đặt tên là Hương Khê (suối thơm) để tưởng nhớ nàng. Trong miền Nội Mông Cổ có hai địa điểm được cho là mộ của Chiêu Quân, một gần Hohhot và một gần Bao Đầu, cả hai đều xanh ngắt cỏ tươi, nên đều được gọi là Thanh Trủng (mồ xanh).
                                                            (Theo Wikipedia)

READ MORE - NÔM NA LÀ CHA MÁCH QUÉ - Tuệ Chương Hoàng Long Hải

ĐỌC “NHỚ CÂY ĐA CHÙA VIÊN GIÁC” THƠ TRẦN TRUNG ĐẠO - Châu Thạch


 
        Nhà bình thơ Châu Thạch


ĐỌC “NHỚ CÂY ĐA CHÙA VIÊN GIÁC” THƠ TRẦN TRUNG ĐẠO
                                                               Châu Thạch

Có ai làm cho cây có linh hồn được không nhỉ? Chúa Trời thì không làm rồi. Trong Phật Giáo hình như có kinh nào đó nói đến linh hồn cúa đá, của cây nhưng ở thể rất đơn sơ. Thế nhưng có một giới người đầy quyền  phép, có thể làm cho muôn vật  đều có linh hồn. Đó là giới làm văn chương vậy. Họ sáng tạo linh hồn cho cả động vật, thực vật, và họ gọi sự sáng tạo đó là “nhân cách hóa” trong văn thơ nhạc của mình.
Ví dụ như hôm nay, nhà thơ Trần Trung Đạo đã nhân cách hóa cho cây đa ở chùa Viên Giác thành người tri kỷ năm xưa. Phải chăng cây đa ấy phải có linh hồn mới “làm bạn vỗ về giấc ngủ”, mới “vàng thương nhớ” khi Trần Trung Đạo ra đi, xa nhau mười hai năm chẳn không về.

Bài thơ “Nhớ cây Đa Chùa Viên Giác” đã dựng cây đa lên thành một hình tượng, biểu hiện hình ảnh song thân mình trong lòng người thi sĩ. Thi sĩ thương nhớ đa chẳng khác chi Kiều đã  khóc trên “lầu Ngưng Bích khóa xuân” vì nhớ mẹ nhớ cha: Sân lai cách mấy nắng mưa/ Có khi gốc tử đã vừa người ôm.

Hãy đọc hai khổ thơ đầu cúa bài thơ để thấy cây đa có linh hồn cúa nó, có tình yêu thương của nó, làm động lòng một cậu bé sống trong chùa:

Tôi chưa kịp trở về thăm Viên Giác
Mười hai năm bèo dạt bến sông đời
Cây đa cũ chắc đã già hơn trước
Biết có còn rụng lá xuống sân tôi

Ðời lưu lạc tôi đi hoài không nghỉ
Ðể niềm đau chảy suốt những mùa thu
Thời thơ ấu cây đa già tri kỷ
Vẫn còn đây trong ký ức xa mù

Chỉ đọc hai khổ thơ trên, ta đủ thấy một cuộc chia ly đã xảy ra trong nghẹn ngào, trong nước mắt. Người ra đi nhớ cây đa như nhớ đến những người thân yêu nhất đời mình.

Người ra đi nhắc dến cây đa rụng lá, như gián tiếp vẽ trong hồn ta hai hình ảnh: Một hình ảnh thân thương biết bao nhiêu khi cây đa “rụng lá xuống sân tôi” và có tôi ở đó. Một hình ảnh ảm đạm buồn hiu hắt biết bao nhiêu khi cây đa “Rụng lá xuống sân tôi” mà tôi đã “Bèo dạt bến sông đời”.

Nhà thơ còn cho biết “Thời thơ ấu cây đa già tri kỷ” khơi gợi trong lòng ta sự yêu thích lắng nghe, lắng nghe những kỷ niệm êm đềm  giữa người và đa mà thi nhân sẽ kể:

Tôi khổ cực từ khi cha mất sớm
Nên bà con thân thuộc cũng xa dần
Khi tôi khóc, đa đau từng cuống lá
Khi tôi cười, xào xạc tiếng quen thân

Ða làm mẹ vỗ về tôi giấc ngủ
Ða làm cha che mát những trưa hè
Ða làm bạn quây quần khi rảnh rỗi
Ða làm người chơn thật chẳng khen chê

Đa không chỉ làm cha, làm mẹ của thi nhân, mà niềm đau của đa còn cao hơn niềm đau của cha mẹ khi thi nhân buồn: “Khi tôi khóc, đa đau từng cuống lá”. Ngược lại, miềm vui của đa còn cao hơn niềm vui của cha mẹ khi thi nhân cười: “Khi tôi cười, xào xạc tiếng thân quen”.

Cây đa của Trần Trung Đạo trở thành cây nhân cách trong thơ, đã cho đứa trẻ nương bóng cửa chùa học được một nhân cách sống ung dung, tự tại và vị tha vô cùng: “Đa làm bạn quây quần khi rảnh rổi/ Đa làm người chơn thật chẳng khen chê”

Hai khổ thơ tràn đầy sự thân ái, sự thắm thiết giữa đa và người. Đọc thơ ta thấy bóng mát đa trùm lên cả cuộc đời bình an của đứa trẻ cho đưa trẻ từ cái lớn nhất là tình thương vô đối đến cái nhỏ nhất là từng chiếc lá rơi vào lòng êm ái.

Thế nhưng đọc khổ thơ sau, khó ai mà không rơi nước mắt. Đứa trẻ trong chùa không có thứ tình yêu cha mẹ, nên dùng đa để bù đắp thứ tình kia. Cô đơn biết bao khi mỗi buổi sáng đứa trẻ phải một mình ôm chổi quét nỗi cô đơn của đời mình. Điều đó có khác chi ôm hình nộm vào lòng để thương tưởng người thân:

Mỗi buổi sáng tôi một mình ôm chổi
Quét lá vàng như quét nỗi cô đơn
Lá vẫn rụng khi mỗi mùa thu tới
Như đời tôi tiếp nối chuyện đau buồn

Mùa thu thì buồn. Hình như đời tác giả có nhiều mùa thu buồn lắm. Hay tâm hồn tác giả luôn là mùa thu? Cho nên tác giả đã than “Để niềm đau chảy suốt những mùa thu” nghe buồn não nuột. Đau thay. nhà thơ thiếu mọi tình thương yêu, chỉ có cây đa nhận làm người thân ái, mà cũng phải chia ly trong “Một chiều thu tôi lạy Phật ra đi”:

Chùa thanh tịnh chẳng dung hồn lữ thứ
Một chiều thu tôi lạy Phật ra đi
Bỏ lại tiếng chuông chùa vang khuya sớm
Cây đa già đứng lặng khóc chia ly

Ðường tôi qua đã không còn bóng mát
Ngày nhọc nhằn mưa lũ xuống đêm khuya
Ða ở lại âm thầm ru khúc hát
Ngậm ngùi buông theo mỗi tiếng chuông chiều

Nhà thơ ra đi, vụt khỏi bóng mát đa như vụt khỏi tay cha mẹ.
Tiếng khóc của người thành thơ và tiếng khóc của đa thành khúc hát âm thầm “ngậm ngùi buông theo mỗi tiếng chuông chiều”
Hai khổ thơ thẩm thấu vào lòng nỗi hiu quạnh cô đơn của đa và người. Người cô dơn, lang thang nơi viễn xứ, đa âm thầm rơi lá, hát ru hời trong sân chùa vắng vẻ đã 12 năm qua trong nỗi đợi chờ.

Rồi thì Trần Trung Đạo hứa hẹn một ngày về lại với đa. Nghe lời hứa càng thêm buồn. Người về đâu ở lại cùng đa, chỉ để kể cho đa nghe “Chuyện trầm luân của kiếp người” rồi lại ra đi. Đa sẽ ở lại, sẽ không còn hy vọng bên nhau, sẽ cô đơn, sẽ “hát bài đồng dao muôn thuở” để cho “Nhạc thu buồn nước mắt chảy trong đêm”

Ða thân mến dẫu có vàng thương nhớ
Cũng xin đừng gục xuống dưới sân tôi
Xin cố đứng để chờ nghe tôi kể
Chuyện trầm luân của một kiếp con người

Tôi sẽ đến ngôi chùa xưa Viên Giác
Nhặt mảnh đời rơi rớt ở đâu đây
Ôi thằng bé nghèo nàn xưa đã lớn
Ði làm người du thực ở phương tây

Tôi viết nốt những bài thơ dang dở
Vá tình người rách nát thuở hoa niên
Ða sẽ hát bài đồng dao muôn thuở
Nhạc thu buồn nước mắt chảy trong đêm

Cây đa là hình ảnh thân yêu mang kỷ niệm đẹp được vào thơ rất nhiều. Bài thơ “Nhớ Cây Đa ở Chùa Viên Giác” cũng nói về kỷ niệm tuổi thơ, nhưng hình như, trong kỷ niệm êm đềm đó luôn mang theo cùng nó một nỗi đau âm ỉ trong lòng. Cây đa có linh hồn mẹ cha che chở cho con, nhưng cái linh hồn đó chỉ nằm trong ảo giác của thi nhân.

Chính vì điều đó bài thơ “Cây Đa ở Chùa Viên Giác” không cho ta những cảm xúc êm ái, mà cho ta cảm nhận hết sự cô đơn của một đời người, làm cho con tim ta rung động bởi sự xót xa của chia ly, nỗi đắng cay của một  kiếp người. Kiếp người ấy là chính Trần Trung Đạo có “Niềm đau chạy suốt những mùa thu”.

                                                                      Châu Thạch


         
                                Nhà thơ Trần Trung Ðạo


NHỚ CÂY ÐA CHÙA VIÊN GIÁC

Tôi chưa kịp trở về thăm Viên Giác
Mười hai năm bèo dạt bến sông đời
Cây đa cũ chắc đã già hơn trước
Biết có còn rụng lá xuống sân tôi

Ðời lưu lạc tôi đi hoài không nghỉ
Ðể niềm đau chảy suốt những mùa thu
Thời thơ ấu cây đa già tri kỷ
Vẫn còn đây trong ký ức xa mù

Tôi khổ cực từ khi cha mất sớm
Nên bà con thân thuộc cũng xa dần
Khi tôi khóc, đa đau từng cuống lá
Khi tôi cười, xào xạc tiếng quen thân

Ða làm mẹ vỗ về tôi giấc ngủ
Ða làm cha che mát những trưa hè
Ða làm bạn quây quần khi rảnh rỗi
Ða làm người chơn thật chẳng khen chê

Mỗi buổi sáng tôi một mình ôm chổi
Quét lá vàng như quét nỗi cô đơn
Lá vẫn rụng khi mỗi mùa thu tới
Như đời tôi tiếp nối chuyện đau buồn

Chùa thanh tịnh chẳng dung hồn lữ thứ
Một chiều thu tôi lạy Phật ra đi
Bỏ lại tiếng chuông chùa vang khuya sớm
Cây đa già đứng lặng khóc chia ly

Ðường tôi qua đã không còn bóng mát
Ngày nhọc nhằn mưa lũ xuống đêm khuya
Ða ở lại âm thầm ru khúc hát
Ngậm ngùi buông theo mỗi tiếng chuông chiều

Ða thân mến dẫu có vàng thương nhớ
Cũng xin đừng gục xuống dưới sân tôi
Xin cố đứng để chờ nghe tôi kể
Chuyện trầm luân của một kiếp con người

Tôi sẽ đến ngôi chùa xưa Viên Giác
Nhặt mảnh đời rơi rớt ở đâu đây
Ôi thằng bé nghèo nàn xưa đã lớn
Ði làm người du thực ở phương tây

Tôi viết nốt những bài thơ dang dở
Vá tình người rách nát thuở hoa niên
Ða sẽ hát bài đồng dao muôn thuở
Nhạc thu buồn nước mắt chảy trong đêm.

                                      Trần Trung Ðạo

READ MORE - ĐỌC “NHỚ CÂY ĐA CHÙA VIÊN GIÁC” THƠ TRẦN TRUNG ĐẠO - Châu Thạch