Theo sử sách
nước ta, trước năm 1975 nhân dân phía Bắc vào Nam có hai đợt lớn: Một là năm 1306
và hai là năm 1558.
Năm 1306,
khi vua Chiêm Thành là Chế Mân dâng hai châu Ô, Lý (nay là Quảng Trị và Thừa
Thiên-Huế) làm lễ vật dẫn cưới Huyền Trân Công chúa (con vua Trần Nhân Tông)
thì nhân dân Thanh Hoá, Nghệ An ồ ạt vào tiếp nhận. Đến năm 1558, khi Nguyễn
Hoàng, tránh thế kìm kẹp của Trịnh Kiểm, đã xin vào trấn thủ Thuận Hoá (Quảng
trị-TTH), nhân dân Thanh Hoá, Nghệ An lại rầm rộ đi theo. Dĩ nhiên, các năm sau
đó nhân dân vẫn rải rác vào.
Tôi được đọc
lời tựa trong tộc phã họ Nguyễn (Đức, Hữu, Như), họ xếp thứ tự khai canh thứ hai
trong sáu họ của Làng. Lời tựa nói rõ: Ba ngài từ đất Hoan Châu - Nghệ An
theo Đoan Quận công Nguyễn Hoàng vào năm
1558 (Mậu Tý).
Tôi lại được
đọc một cuốn sách nhan đề là Ô Châu Cận Lục ghi chép đề cập đến nhiều phương diện liên quan như núi sông, sản vật,
phong tục, thành quách, danh lam, phú thuế, quan chức, nhân vật…của dải đất
miền trung đặc biệt là hai châu Ô, Lý. Ô Châu Cận Lục do Dương Văn An - Thượng
thư triều Mạc Phúc Nguyên (1547-1553) - biên soạn. Dương Văn An người xã Tuy Lộc,
huyện Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng Bình. Năm 31 tuổi
ông đỗ Đồng
Tiến sĩ khoa
Đinh Mùi – 1547. Năm 1553, ông dựa
vào hai tập sách của hai bạn đồng hương (sử không ghi tên hai vị này -NTX) và
thu thập thêm những điều tai nghe mắt thấy, rồi bổ sung, hiệu đính, nhuận sắc…
và lưu truyền lại ngày nay.
Ô Châu Cận Lục gồm 6 quyển, trong đó, quyển ba nói về phân chia đơn vị hành chính. Hai châu
Ô, Lý này (gọi Trị, Thiên cho dễ nhớ) chia ra 6 phủ, huyện. Huyện Hải Lăng là
huyên duy nhất không thay đổi tên (?). Hải Lăng có 49 xã gồm An Thư (An thơ), Vĩnh
Hưng (Hưng Nhơn) Văn Quĩ, Câu Nhi, Hà Lộ (Hà lỗ)… cho đến xã thứ 49.
Một vấn
đề tôi còn phân vân là trước 1553 đã có làng Hưng Nhơn, thế thì ba ngài lập họ
Nguyễn không phải theo Nguyễn Hoàng vào năm 1558 được. Đề nghị bà con ai có
thêm tín sử xin mách bảo.
Xin cám ơn.
Nguyễn Thanh Xuân
***
Bài viết dự kiến phát biểu trong hội thảo
TẦM VÓC LÀNG HƯNG NHƠN
Tôi
năm nay 83 tuổi, xa quê hơn nửa đời người và đi nhiều nơi, đến đâu tôi cũng
khoe làng tôi là một trong những làng đẹp nhất bởi đường ngõ thẳng băng, gọn
gàng như bức tranh. Tôi nhớ vào Tết 1956-1957
khi đang học ở trường Trung cấp Nông lâm Trung ương, trên tờ croki khổ
60 x 100 cm, tôi đã vẽ làng ta (khiêm tốn nói rằng) gần đúng 100% tỷ lệ cho
từng ngõ, từng nhà…trong đó ghi tên chủ nhà và trong nhà có mấy người. Thú thật
xóm ông Dạ (cầu Cừa) chỉ nhớ khoảng 70%. Cái may những năm đó tôi là Uỷ viên
hội đồng nhân dân và Trưởng ban Thông tin tuyên truyền xã Hải Phong. Xã Hải
phong gồm 6 làng: Hà Lỗ, Câu Nhi, Văn Quĩ, Hưng Nhơn, An Thơ và Phú Kinh (hai
xã Hải Hoà và Hải Tân gộp lại). Đoàn tập kết ra Bắc cuối tháng 7-1954 là Đoàn Hải Phong do Nguyễn Ngôn người Hà Lỗ làm trưởng đoàn), Cái chính là làng dễ thấy, dễ
nhớ. Tiếc rằng năm tháng di chuyển nhiều nên thất lạc.
Vóc dáng làng
Xưa
nay hễ đến vùng đất mới người ta thường chọn : một là sườn đồi núi, hai là ven
sông. Ông cha ta chọn ven sông: sông Ô Lâu. Nói là ở ven sông nhưng làng ta lại
không có sông (có, nhưng chỉ khoảng trên dưới 80 m), có người bảo vì đến sau.
Sau trước chưa là vấn đề. Tôi nói đến cùng thời. Đến sau, sao lại có nhiều
ruộng canh tác đến vậy. Bình quân đầu người có khi nhiều hơn các làng khác.
Chuyện đến sau trước ta sẽ tìm hiểu thêm.
Ít nhất cũng phải có một hoặc nhiều cuộc
họp giửa những người làng giáp ranh nhau để giăng dây đóng cọc : Hưng Nhơn-Văn Quĩ-Hoà Viện và Hưng Nhơn- An Thơ.
Làng ta được xác định: Đông giáp An Thơ,
tây giáp Văn Quĩ, nam giáp Hoà Viện và mấy chục mét của sông Ô Lâu, bắc là đồng
ruộng của làng ta.
Đứng trước
vị trí này, các đại gia làng ta với tầm nhìn rộng, trình độ học vấn cao, đặc
biệt kiến thức về thiết kế, kiến trúc và chắc có nhiều kinh nghiệm nên đã có
khuôn viên làng như hiện nay.
Khuôn viên làng hình chữ nhật khoảng (300x1000)m
ước bằng 1/10 ruộng canh tác-- diện tich ở / diện tích canh tác tỉ số1/9, có
nghĩa là ở một làm chín. Thời gian đã xác định con số này là hợp lý. Chắc chắn
ruộng sau Rôộc là đất dành cho dân cư khi con cháu đông lên.
Cái tầm nhìn như vậy liệu các chuyên gia, kĩ sư trưởng,
kiến trúc sư ở thế kỷ 21 có mấy ai làm được?
Đi sâu vào thực tế
Phía bắc tuy là ruộng của mình, nhưng bị
mưa lũ, gió bão đe doạ nên đã đắp con đường Bạng cao rộng trồng cây làm bức
tường luỹ che chắn (chọn trồng cây tre là ngà và chủ yếu là cây mưng) tre là
ngà cây to cao nhiều gai , rậm, chẳng ai dám chui vào bụi là ngà. Cây mưng chịu
nước chịu hạn tốt, rễ to bám rộng, sâu, cành chắc dẻo, lá rậm quanh năm không
những giao cho nó nhiệm vụ bảo vệ an
toàn cho dân má nó còn cung cấp thức ăn thú vi mỗi khi ra lộc non. Tôi còn nhớ
câu ca dao quê ta: Đói nghèo rau má rau mưng/Chồng ăn thiếp nhịn xin đừng xa
nhau.
Phía nam giáp Làng Hoà Viện (chuyện cách
sông và chỉ có một xóm của một làng của Thừa Thiên-Huế giáp với hai làng của
Quảng Trị- sẽ tìm hiểu thêm sau) các vị đã cho đào một rãnh (hói không phải
hói, mương chẳng phải mương) vì không lúc nào có nước, chiều rộng trên dưới một
mét chắc là để xác định ranh giới, tiếp đó là một luỹ tre và cây bụi, cũng như
đường Bạng nhưng không cần lớn và chắc như đường Bạng. Song song với nó, đào
một con hói rộng trên dưới 10 mét chạy dọc từ sông Ô lâu lên đến giáp ranh giới
làng Văn Quĩ rồi chạy thẳng ra vừa tưới nước cho đồng ruộng vừa làm ranh giới
giửa hai làng. Đất đào hói đem đắp con đường cái . Giữa con đường cái và bờ hói
trồng một luỹ tre rợp bóng quanh năm. Dân làng lập từng bến để giặt giũ sinh
hoạt. Có nước chảy quanh làng cây cối tốt tươi, khí hậu ôn hoà
Phía đông đất liền với làng An thơ, lúc đầu
e cũng chỉ đóng cọc phân ranh giới, nhưng khi ngài em thứ ba (thành lập họ
Nguyễn: Đức, Hữu, Như có ba anh em ruột) tham gia chinh chiến trở về, triều đình
phong sắc tặng Võ Địch Đại Tướng Quân và dụ cho làng lập miếu thờ, hằng năm đến
ngày 16 tháng 6 Âm lịch làng tổ chức cúng giỗ. Tuân lệnh Triều đình, làng lập
miếu thờ ở cạnh biên giới làng An Thơ và đặt tên miếu là Tả Thần hoàng, có
nghĩa là ông thần trấn thủ đất ở phía tay trái. Nhân dân thường gọi là miếu
Ông. Thế là “lãnh địa” làng Hưng Nhơn chắc chắn biết chừng nào!
Khu vực dân cư được chia làm ba xóm: giáp
với Văn Quĩ là xóm Thượng đến Trung đến Hạ. À lại là chuyện lạ xuất hiện: dòng
nước chảy từ hạ lên thượng. Có cái hay là bình độ đất phẳng như tờ giấy nên
sáng nước từ sông chảy vào đồng ruộng, chiều nước chảy từ đồng ruộng ra sông.
Phong thuỷ ấy tạo cho tâm hồn người dân sống ôn hoà, thuần phác, thuỷ chung.
Chia ba xóm, mỗi xóm có một đường kiệt
(trôn) rộng chạy thẳng ra đồng ruộng và từ đầu làng đến cuối làng cứ cách nhau
25-30m có đường kiệt rộng chừng 3m, hai bên bố tri hai dãy nhà, ngõ thông ra
đường kiệt. Mai đây làm biển ngõ, nhà thì “ba mươi giây” là xong.
Viên đá bí tích ở Càng. Tôi chỉ nhìn được
một lần vào ngày giỗ Bà năm 2002 khi cùng đoàn bô lão làng ra cúng. Một viên
đá, một bí sử. Ai biết được xin viết bài để nhân dân ta đời đời nhớ ơn.
Tôi lại chỉ được một lần lên Thượng Nguyên
cùng các vị bô lão và cán bộ, nhân dân lên cúng đầu năm vào tết Tân tỵ- 2001.
Vùng đất này có lẽ lập sau, nhằm trợ giúp cho ngày ba tháng tám. Phải gian khổ
lắm, bởi ở vùng độc canh lúa, ắt phải mang gạo lên rừng đổi lấy củ khoai củ
sắn.
Nói vóc dáng
làng mà không đề cập đầy đủ về Cái Bến Ngã Ba là một thiếu sót lớn. Bến Ngã Ba,
cái bến huyền thoại, bởi đó là nơi hội tụ sắc thái tươi mát của cả làng. Ngày
nào cũng như ngày nào luôn nhộn nhịp trò chuyện râm ran, vui vẻ. Thực thế, ai
đang có chuyện lăn tăn gì đó, hễ đến bến cái buồn tiêu tan, tâm hồn được hòa
quyện với cái vẽ đẹp thuần khiết của trời mây sông nước tự lúc nào. Bến Ngã Ba,
bến thiên nhiên mà như nhân tạo. Đáy cát trắng tinh không một tí bùn, chỗ cạn
chỗ sâu: trẻ con vừa tắm vừa vọc cát, con trai đứng nước ngang hông khoe cái bộ
ngực nở nang và đôi cánh tay hộ pháp; con gái cố nhấn chìm gần đến cổ thỉnh
thoảng nhảy phóc lên cho tia nước phóng ánh hào quang. Cái gì đó khiến người
con trai kịp thấy bạn mình quảy đôi thùng gánh nước, lẹ làng vào bờ và đôi tao
gióng gọn gàng trên tay với một nụ cười rạng rỡ. Có những “chiếc” tàu ngầm mà
cô gái nào đó la lên “chân mình như có bàn tay ai nhầm”… Bến Ngã Ba sáng từng
đoàn người gánh nước giặt giũ. Bến Ngã Ba , trưa trâu mẹp; chiều đón khách theo
đò dọc vào Huế…Chuyện Bến Ngã Ba làng ta e phải có hằng trăm bài viết cũng chưa
đề cập hết. Với tôi nó là huyền thoại mãi mãi là huyền thoại.
Xin có lời đề nghị các bạn tham gia viết
nhiều về vóc dáng làng. Tôi tạm dừng ở đây. Có chỗ nào sai cho ý kiến, xin chân
thành cám ơn.
Mấy
suy nghĩ về
Viên Đá miếu Bà Giàng ở làng ta
Bài sự tích Bưng đá ở làng Hưng Nhơn do tác giả Hoàng Thị Ái Hoa sưu tầm,
nghiên cứu và công bố.Theo tôi nên đổi đầu đề là truyền thuyết Bưng đá, bởi câu chuyện trên chủ yếu là nghe truyền
miệng. Khoảng 14-15 tuổi tôi đã nghe kể Bà Giàng bưng Đả, người kể cười và ai
cũng rúc rích. Còn chuyện thành đinh thì tôi không được nghe. Mấy câu hỏi cứ
đặt ra chưa tìm được lời giải thoả đáng.
Năm 2001, lần đầu tiên tôi theo đoàn bô lão
và dân làng ra Càng làm lễ giỗ Bà, đươc thấy rỏ cả hai viên. Một là đá tự
nhiên, một là “cái trống con” làm bằng chất liệu “đá” bột.
Theo tôi hai viên này không phải nguyên ở
đây. Giửa vũng lầy mênh mông (tôi hình dung nơi đó như một đảo nhỏ giữa Thái Bình Dương của Hải Lăng) tại sao lại có đá mà chỉ có hai viên, một viên là đá
tự nhiên, một viên là “một kiệt tác nhân tạo”. Nếu cho rằng những di tích Chàm
để lại thì phải khẳng định “thành phố Chàm” bị chìm sâu (cần khai quật), sót
một viên không chìm theo. Viên đá nhân tạo và viên đá tự nhiên ai có mặt trước,
Rằng viên đá nhân tạo do bà tạo ra nhằm rèn luyện và xác nhận thành đinh thì
lại càng không hợp lý, bởỉ dân đinh thì ở trong làng mà tạo viên đá lại ở nơi
xa, phư ơng tiện đi lại? Bà ấy nhờ vào kỷ thuật và chất liệu thế nào để làm ra
viên đá ấy. Chuyện bà bưng đá là chuyện nói cho vui, lấy chuyện đàn bà tụt váy
để…cười, như không tụt váy thì đất ta còn thêm nhiều nữa. Đó là chuyện cuả làng
ta, còn chuyện của Mỹ Chánh thì khác, họ bị thiệt thòi là do quan…do vân vân.
Giá sử nếu quan chia ranh giới và đồng ý cho làng ta bưng từ mốc tranh chấp đi
xuống Mỹ Chánh, thì dại gì làng ta không lấy lực điền để bưng mà để cho một bà
làm? Ta bằng lòng với truyền miệng cho ta viên đá lạ, cho ta một bà dũng cảm
dám làm một việc “động trời”mà thời đó người đàn bà bị coi thường. Ai dám đọ
sức với người phụ nữ hậu duệ Bà ở làng Hưng nhơn!
Câu chuyên Bưng đá nói trên, khẳng định là
các ngài khai canh thuộc các làng Văn Quí, Hưng Nhơn, An Thơ vào cùng thời, chứ
làng ta không thành lập sau.
Bây giờ chẳng có chuyện tranh chấp. Uống
nước nhớ nguồn, ta tiếp tục thờ Bà ở
biên giới phía bắc địa đầu lãnh thổ nơi cô quạnh, heo hút, trăm ngàn khổ cực
lưu truyền lại ngày nay với tấm lòng biết ơn như ông cha chúng ta đã thờ từ
xưa.
Để giữ nguyên di tích, cá nhân tôi xin đề
nghị các vị chức sắc nên đưa viên trống đá ra Miếu bà như cũ, nếu miếu được tôn
tao có cửa cài then khoá cẩn thận.hơn.Ban đầu tôi cũng có suy nghĩ : có thể có
ai vô tình làm vỡ viên đá thì ta mất và trách nhiệm chinh, tội lỗi các vị chức
sắc phải chịu. Tôi cũng tin rằng linh vật thiêng liêng đó không ai dám đánh cắp
nhưng chắc gì, cảnh giác cũng là điều không thể coi thường. Kính xin các cụ
minh xét.
Tháng 12 năm 2011
Xóm Hạ làng Hưng Nhơn
Nguyễn Thanh Xuân (tuổi 83)
Trao
đổi:
Vĩnh Hưng, Hưng Nhơn, Kẻ Vịnh
Năm 1954 tôi đã 25 tuổi, nhưng chưa hề nghe ai
nói làng ta là Cái Vịnh, chỉ nghe gọi là Kẻ Vịnh. Tôi tự hỏi tại sao làng ta là
Vĩnh Hưng đã chính thức đổi thành Hưng Nhơn lại có thêm Kẻ Vịnh. Kẻ Vịnh xuất
hiện vào thời kỳ nào?. Chưa được xác định. Khi lớn lên tôi thấy viết ở nhà thờ
họ Đạo là Giáo xứ Kẻ Vịnh.
Vị trí nhà thờ đóng tại làng Hưng Nhơn tại
sao lại ghi là Kẻ Vịnh. Thoáng nghĩ: liệu
có dính dáng gì với Kẻ Văn, bởi nhà thờ ở Văn Quĩ cũng ghi Giáo xứ Kẻ Văn. Lẽ
nào Kẻ (Vịnh, Văn) dành riêng cho những tín đồ Thiên chúa giáo? Cũng không
phải, Vì nhà thờ ở làng An Thơ và nhà thờ làng Hòa Viện (cách nhau 100m và
1000m) không thấy ghi là Kẻ Thơ, Kẻ Viện.
“Giáo xứ Kẻ vịnh” cũng không thể xem như tên
một cửa hàng, tên xí nghiệp thoải mái đặt như hiện nay.
Trong văn tự đều ghi : Hưng Nhơn ngày…chứ
không ghi Kẻ Vịnh ngày…như vậy rỏ ràng Kẻ
Vịnh không phải là đơn vị hành chánh, nhưng khi ai đó hỏi ông (bà) ở làng nào
thì có người trả lờì là làng Hưng nhơn, có người trả lời là làng Kẻ Vịnh. Kẻ
vịnh mặc nhiên trở thành tên gọi khác của làng Hưng nhơn
Thử tách hai từ : Kẻ và Vịnh.
Từ Kẻ tiếng gọi dân làng ở miền Bắc, kẻ chợ
là nơi đông người như Hà nội xưa…Ở Hải lăng ta có những 50 làng mà chỉ ba làng
dùng từ kẻ là Kẻ Diên (có chợ kẻ Diên-thủ phủ Hải Lăng) Kẻ Văn và Kẻ Vịnh.
Có người cho rằng đất quê ta là vùng trũng
nên đặt tên có chữ Vịnh. Không phải! Vịnh là vùng biển ăn sâu vào đất liền như
vịnh Hạ Long, vịnh Cam Ranh…rằng Kẻ là làng,
Vịnh là vùng trũng nên gọi là Kẻ Vịnh. Theo tôi, chưa phải!
Tôi nghĩ rằng từ xa xưa Trong Ô Châu Cận
lục (烏州近錄) Thượng thư Dương văn An biên soạn, hai dịch giả Trịnh Khắc
Mạnh, Nguyễn Văn Nguyên, dịch và chú thích thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và
nhân văn-Viện nghiên cứu Hán Nôm do Nhà xuất bản Khoa học Xã hội ấn hành- Hà
nội 1997. trong lời bình trang 232 (bản chữ Hán) Vĩnh Hưng chi chí thượng văn,
bản dịch (tiếng Việt) trang 48 dịch tương đối sát là Vĩnh Hưng có chí chuộng
văn (văn= văn chương chứ không phải văn= nghe). Lại nữa trang 269 (bản chữ Hán) mỹ hóa Vĩnh Hưng, nhưng
trong bản dịch (tiếng Việt) trang 71 lại dịch là phong hóa Vĩnh Hưng. Dịch
phong hóa không đúng. Phong hóa là phong tục tập quán và nếp sỗng của một xã
hội: phong hóa tân tiến, phong hóa suy đồi… Mỹ hóa thì rỏ ràng không có nghĩa
khác. Mỹ là đẹp: mỹ nữ, mỹ mãn, mỹ xảo… Phải chăng Thượng thư thấy ở Vĩnh Hưng
có nét hào hoa phong nhã, có tư chất về trí tuệ văn chương!.
Qua bao
trăn trở tôi lại thấy: Kẻ có nghĩa là chỉ trống về người: kẻ giàu, kẻ khó, kẻ
sang, kẻ hèn… Vịnh có nghĩa là ngâm vịnh; tức cảnh mà đặt thơ: vịnh mùa hè,
vịnh cái chổi…Vĩnh Hưng, Hưng nhơn hay ngâm thơ xướng họa mà có cái tên Kẻ
Vịnh. Kẻ Vịnh là làng hay vịnh thơ, ngâm thơ. “Biệt danh Kẻ vịnh” này tuyệt nhiên
không dính với tên ghi Giáo xứ Kẻ Vịnh nói trên. Có khi là một sự trùng hợp
ngẫu nhiên. Tôi thích cái ý “nịnh” làng. Nịnh làng thì ai mà chẳng thích nịnh,
nhưng cò có cái cớ chi chăc chắc thì nịnh mới có giá phải không các bạn!.
Xin tạm
dừng ở đây. Chúng ta sẽ trao đổi tiếp khi có thêm tư liệu và suy
nghĩ mới.
Như là bức thư ngỏ
Đề nghị các bạn viết về các phong tục tập quán,
những lễ hội cỗ truyền, những ngành nghề và các trò chơi con trẻ…
Những
năm yên bình trước 1945 tôi được biết:
Với trẻ con: Đá banh bưởi, ná bắn chim, thả
diều, nạp vụ, đánh căng cù, đánh đáo, đánh bi, đá kiện
một chân, đá hai chân, trốn tìm, đập chúng (đầu trâu).
Con gái thì: Nhảy chồng chán, ô ăn quan, kẹc
khắc, vụ quay tôm cua, thẻ ăn 1 ăn 10…
Tâp
thể thì: Đua thuyền (gọi là bơi trải), đua ghe, đánh bài tới, bài chòi, đánh cờ
quân, kết, cờ chòi, tổ tôm.
Các
bài ca dao hò vè, nói lối…rất phong phú.
Làng Lễ : Lên cây nêu ngày 30
đến mồng 7 hạ nêu (Ý nghĩa của cây nêu), Công giáo có kiệu, làng có năm tổ chức
đánh đu, những năm 1943-1944 có đóng kịch, múa…
Các ngành nghề: Làm ruộng (nhớ cái gian khổ
nghề ruộng—khác xa bây giờ), nghề thợ mộc, nghề làm nón, tơi, nghề bắt cá, nghề
buôn nón lá vào Huế, nghề cắt tóc (cắt kéo, cắt tông đơ), nghề may (may tay, máy
Singer), nghề làm xáo, quầy hàng xén v. v…, và các nghệ nhân của các nghề.
Chúng ta ôn lại
những gì đã có trước đây để thấy nét đẹp truyền thống mà ông cha chúng ta đã
hun đúc, bởi chúng rất hay, rất khó, rất hấp dẫn, rất bổ ich cho rèn luyện thể
chất, thư giản…
Thân
ái chào bà con quê hương.
Nguyễn
Thanh Xuân
Sinh 06-6-1929
Quê quán: Hưng Nhơn, Hải Hoà, Hải Lăng, Quảng Trị
Thường trú: 487/2 đường Cổ Nhuế ,Từ Liêm, Hà Nội
Đt : (04) 62650037---0986 465 346
***
Ảnh minh họa từ trang nguyennhukhoa.blogspot.com và thithothitho.blogspot.com
***