Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Friday, September 2, 2011

ĐÌNH THU - NHỚ TRÚC KINH

Thân tặng : Bùi Sơn
 
Vệt nhớ nằm ngang
Chạm vào chiều cổ tích
Gió lặng im
Miền hoài niệm khô ran giữa lưng chừng

Ngày hè xưa yên ả
Mùa cá cạn không tên
Trốn biệt vào giấc ngủ
Khen khét … thơm thơm
Mùi cá kho quyện nước màu đường
Thương bạn, thương mình …
                               thương quê hương
Cuộc mưu sinh khóc, cười nghiêng ngã

Ừ thì lâu lắm !
Chưa về Trúc Kinh
Thăm bạn, thăm làng xưa
Tuổi ấu thơ rong chơi
Hát vang bài ca mơ ước
Đêm nằm ngủ quên trên cỏ
Mùi rơm rạ ủ nồng say

Bôn ba khắp miền
Mỗi đứa mỗi phương biền biệt
Gửi lại quê hương niềm nhớ
Bỏ cánh đồng khô, cày, cuốc sau vườn
Theo giấc mơ thị thành
Rong ruổi …

Cô gái ngày xưa giờ ngồi hát ru con
Nhịp ầu ơ … lạc vần bên cánh võng
Lời hẹn cũ tan vào tiếng sóng
Mùa hạ trôi qua song cửa ngập ngừng .

Đình Thu 




Bài do tác giả gởi tặng

                                                                             
READ MORE - ĐÌNH THU - NHỚ TRÚC KINH

NGUYỄN ĐỨC TÙNG - NĂNG LƯỢNG CỦA CHỮ


Trước khi có chữ viết, ngôn ngữ là tiếng, tức là âm thanh. Sau khi có chữ viết, ngôn ngữ mang thêm thuộc tính mới, do những biểu hiện thị giác trên trang giấy. Như thế, khởi đầu, thơ là tiếng nói, và trong tiếng Việt, đó là các tiếng đơn âm. Ngày xưa, người đọc thơ chính là người nghe thơ: câu thơ cần dễ hiểu, dễ nhớ, và một bài thơ hay, sống được lâu dài, là nhớ vào ký ức của con người qua các thế hệ.

   Sự phá triển phức tạp của xã hội và những biến đổi về tâm lý làm cho thơ tự do và thơ không vần ngày một lan rộng, thơ trở thành một nghệ thuật nhìn lấn át hơn nghe. Nhiều nhà thơ thuộc khuynh hướng này quên đi rằng sự tiết kiệm chữ và cách sắp xếp chúng là một nghệ thuật cao cường của thơ ca, được lưu giữ lâu đời. Ngôn ngữ chứa nhiều khả năng kỳ lạ, vì vậy chúng đầy bí ẩn. Nén lại các chữ, dồn chúng vào trong những câu thơ có giới hạn, mở rộng nghĩa cho chúng, là phương pháp mà Du Tử Lê sử dụng điêu luyện, đặc biệt vào thời gian anh vượt qua tuổi bốn mươi, sau hơn hai mươi năm sáng tác.

Nhiều người đọc Du Tử Lê, lấy làm ngạc nhiên là thơ anh “bỗng hay lên một cách đột ngột” từ những năm 1980. Trong khi đồng ý phần nào với cách nhìn có vẻ đơn giản như vậy, tôi tin rằng sự phát sáng tài năng ở anh đã lấp lánh từ những năm sáu mươi.

Thoạt đầu anh viết những câu đơn giản, với nghĩa một chiều, mỗi câu là một ý. Trong đó có những câu khá tầm thường.

 Thời gian đẹp là thời gian đánh mất
Mộng không thành là mộng quá cao xa 

Hay

 Cầm bằng bãi gió mây qua
Đôi chân nhỏ dại lỡ sa vào đời 

Cho đến những câu thơ thành công hơn :

Kỷ niệm tôi từ những ngày vỡ tiếng
nhẩn nha gom từng cọng thiết tha rơi
 con dế nhỏ lớn lên đầm tiếng hát
khi đêm về ru giọng đớn đau hơn
cây niên thiếu cũng thui mầm trong sáng
lá oan khiên lả tả mái hiên người 

Thời còn ở Việt Nam, chữ của anh là chữ chất phác, mặc dù chân tình, tha thiết. Tuy nhiên anh cũng có những đột phá lạ về ngôn ngữ. Đây là dấu hiệu báo trước một tài năng chín tới, hai mươi năm sau.

 Hạnh phúc tôi từ những ngày nước lớn
Trời mưa mau tay vuốt mặt khôn cùng
Bầy sẻ cũ hom hem chiều ngói xám
Trời xanh xao chân nhỏ cũng không về 

(1967. Khúc thêm cho Huyền Châu)
 
Sau cuộc đổi đời, lênh đênh cuộc sống di tản, nhớ nhà nhớ nước quay quắt, có lẽ một điều gì đó đã xảy ra thật mãnh liệt, đánh động tất cả giác quan , mở bừng tâm thức của anh. Điều đáng chú ý là ở một số nhà thơ khác, cũng có thể cùng trải qua những cảnh ngộ như anh, đã không có sự phơi trần hết mình trước giông bão : họ đã không gào thét như anh trên cánh đồng tâm hồn. Du Tử Lê, nhờ thế, đã bay kịp đôi cánh của chữ. Anh mở ra những kích thước mới, làm giàu thêm cho ngôn ngữ mẹ.
Đôi khi anh viết giản dị, mộc mạc :

 Người ở cùng tôi mỗi mũi đường
Lập lòe năm tháng nạm không gian
Ngỡ ai hát nhỏ, mà, sao l
Nghe rõ ràng như tiếng hát nàng 

mà vẫn gợi cảm, làm rung động người đọc. Nhưng thường thì anh viết khó hơn :

 Than, củi gọi ngày, đêm xương máu, rợn
Trí câng câng; tâm gõ nẩy bong bong
Thuở mông muội thiêng liêng rừng cỗ đá
mỗi tiếng kêu: nóng hổi một linh hồn
  
Nghệ thuật của Du Tử Lê trước hết bắt đầu ở cách chọn chữ. Trong giai đoạn đầu của sự nghiệp thơ ca, khoảng ngoài hai mươi tuổi, anh dùng chữ dễ dàng.

 Buổi sáng nào quên thức trên những hàng cây xanh
Nỗi xót xa nào đậu mãi trên những cặp môi khô nhăn
Tâm hồn nào không còn chỗ dung chấp tình yêu
Lòng bao dung nào được nghĩ tới ngang như một thủ đoạn
Sự kiêu hãnh ngấm ngầm nào giết lần chúng ta 

Thậm chí đến mức dễ dãi:

Mình về phấy ấm êm
Tôi lêu lỏng suốt nghìn đêm bạn bè
Mình về phấy hiên che
Mẹ chăm giấc ngủ vỗ về nỗi con
Mình về phấy ven sông
Bán buôn chiều chợ gánh gồng tình yêu 

Đây là lỗi mà các nhà thơ Việt Nam hiện nay, không ít thì nhiều, hầu hết đều mắc phải.
Nhưng thoắt một cái, anh đã vượt qua nó. Anh chọn các chữ khó hơn, có mức nghĩa dày đặc hơn, tiếng Việt gọi là hàm súc. Điều khó khăn là các chữ như thế có thể làm cho một bài thơ trở nên mất tự nhiên, nếu không được đặt đúng chỗ. Hãy xem Du Tử Lê vượt qua cạm bẫy này như thế nào.

Và Huyền Châu
 Cánh vàng đã vỗ muôn xa
Vó thu ngựa ngủ đời ta lưng gù
Giữa vùng tư tưởng đêm lu
Tay xưa mắt nọ kỳ khu hồn người 

Giọng điệu trong bài này chân thật, nhịp đi tự nhiên, các chữ đọc trúc trắc nhưng lại hoàn toàn phù hợp với ý thơ: đã vỗ, ngựa ngủ, kỳ khu. Trong bài này chữ chìa khóa là chữ lưng gù. Các bài thơ hay thường có những chữ chìa khóa như thế.

Càng về sau, anh càng tránh được sự dễ dãi trong thơ, biết cách tiết kiệm chữ. Điều này thể hiện rõ hơn trong các bài thơ có vần, vốn là sở trường của anh. Khi viết thơ tự do, Du Tử Lê mới đầu hình như chưa nhận ra rằng bằng cách làm thơ tự do, anh đã vô tình chuyển qua một hệ thẩm mĩ khác, trong đó cấu trúc ngôn ngữ được quyết định nhiều hơn bởi các ý tưởng: không có một ý tưởng cốt lõi, xương sống, có tính độc sáng, bài thơ hoàn toàn sụp đổ. Cũng như vậy, tính mơ hồ của ngôn ngữ, vốn có vai trò quan trọng trong thơ có vần, trở nên phần nào ít quan trọng hơn trong thơ tự do.

Về sau, anh học được rất nhanh điều này, và đạt đến sự diễn cảm thoải mái trong một số bài thơ tự do thành công, mà đỉnh cao là Trường ca Mẹ Về Biển Đông.

 Khi tôi tới những bông birdflower như bầy én
Có đôi cánh vàng, chúc m
Tư thế sẵn sàng lao xuống
 
Trong ba câu thơ ngắn này, người đọc vẫn nhận ra được phong vị của một người làm thơ có vần kỳ ảo, đã tự vượt ra được, để chạm đến một bến bờ khác của ngôn ngữ.
Du Tử Lê chú ý đến các âm tiết (syllables) khác nhau trong thơ. Sau đây là các ví dụ:

-         Âm- an, -ang gây cảm giác rộng rãi mênh mông:

 Chiều dâng lênh láng chiều, giăng hàng 

-         Âm –ui gây cảm giác khô, lững lờ, hẫng:

Cây vùi, chôn nhau khôn lui
Ngọn liên hoa tạnh, gốc hồi dương, khô 
-         Âm –ách, -ất, -ấc gây cảm giác ngắn gọn, sắc, vui vẻ:

 Bông hoa mách một con đường ngắn nhất
Đem mùi hương vào tận giấc mơ người 

Một trong những đặc điểm của Du Tử Lê là anh dùng các chữ bình dân một cách táo bạo. Một số nhà thơ Việt Nam ít sử dụng các từ ngữ bình dân, có thể kể: Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Thanh Tâm Tuyền. Một số nhà thơ sử dụng rất nhiều các yếu tố dân gian, đặc biệt ca dao, có thể kể: Hoàng Cầm, Lê Đạt, Dương Tường, Tô Thùy Yên. Ít người dùng chữ như anh:

 Em xâm thực nửa đời tôi chín muỗm 
Mày đã mười năm không nhúc nhích 
Vô Kỵ được dẫn đi chữa bệnh.
Không có màn đánh nhau chí chạp.
Chỉ có Kim Hoa bà bà xuất hiện 

Các chữ như chín muỗm, nhúc nhích, chí chạp là các chữ bình dân được sử dụng đầy thuyết phục.

Sự tương tác giữa chữ này và chữ khác trong một câu thơ, về nghĩa và về âm, là một hiện tượng đặc biệt, cần những phân tích sâu hơn. Ở đây tôi chỉ xin lưu ý rằng Du Tử Lê là một trong số khá ít các nhà thơ hiện nay dành cho chúng sự cẩn trọng cần thiết. Thể hiện rõ nhất điều này, có thể thấy trong việc sử dụng vần tinh tế của anh, giấu sâu vào giữa các chữ:

 Thương mẹ đã lưng đồi
Còn nghe rừng hú mãi 

Lưng đi cặp với rừng về âm, nhưng không phải về nghĩa. Đồi đi cặp với rừng về nghĩa, không phải về âm, nhưng được kéo theo bởi lưng.

Đôi khi không sử dụng đến vần, anh vẫn có cách đặt các chữ chen vào nhau theo một vị trí làm cho chúng va vào nhau, vang lên:

 Chân đi gió tạt sầu ba hướng
Tay vói một trời: trời mưa bay 

Chữ vói hay hơn chữ với. Sở dĩ như vậy là vì hai chữ trời trùng lập, một sự hiệp vần quá chặt chẽ, vì vậy chữ với trong trường hợp này gây cảm giác dễ dãi, lười biếng. Chữ vói níu nó lại, thấp hơn, gây cảm giác hụt hẫng.
        
Thật ra Du Tử Lê ít dùng chữ lạ. Anh cũng không dùng các từ phức hợp, mà sử dụng nhiều hơn các từ thuần Việt. Các chữ thuần Việt có nội dung rõ, nghĩa cụ thể, ít gây cảm giác mơ hồ, trừu tượng, vốn có khi cần thiết, như trong tác động của các chữ Hán Việt. Vậy bí quyết của Du Tử Lê là sử dụng các chữ thường một cách táo bạo, sắp xếp lại cách nói, làm chúng trở nên mới lạ, đi những con đường chưa có người đi.
Một câu thơ của Du Tử Lê có hơn một ý tưởng, và các ý tưởng này quyện vào nhau, va đập vào nhau, tạo nên âm hưởng riêng.

 Bóng lá chính là tên giữ cổng
mời em trở lại nắng trong veo
những con bướm nhạt in trên đất
đừng dẫm lên, nghe, chút bọt bèo 

Anh dùng hai hình ảnh, sự việc, hoặc hai đối tượng, trong cùng một câu thơ: bóng lá / giữ cổng, mời em / nắng, bướm / đất, dẫm / nghe.. Sự kết hợp như thế mặc dù  phổ biến, đã được anh dùng có chọn lọc. Đôi khi sự phát triển từng cặp không chỉ diễn ra trong một câu mà cả trong một đoạn.

 Tìm tôi đèn thắp hai hàng
Lạc nhau cuối phố sương quàng cổ cây 

Câu lục có hai động từ, nghĩa là hai mệnh đề, câu bát có hai động từ, là hai mệnh đề khác. Đây là một trong những chìa khóa của biến ảo ngôn ngữ Du Tử Lê.
Anh còn dùng các thành ngữ khá thành công, biến các chữ quen thuộc thành mới.

Kẻ sĩ từ lâu lặn hết rồi
Ngươi còn / trơ trọi / bóng / đêm / thôi
Ai không nín thở qua cầu chứ?
người vác hoài cây thập giá đời

(Phạm Nhuận)
 
Nín thở qua cầu là một thành ngữ. Nhưng thành ngữ anh dùng là những thành ngữ mới. Các thành ngữ lâu đời hơn ít gặp. Tôi đang chạm đến một vấn đề quan trọng : đó là hiện tượng các chữ bình dân xuất hiện rất nhiều trong thơ Du tử Lê vừa nhắc đến ở trên. Trước anh, không thấy nhiều, sau anh cũng  ít gặp.

Việc sử dụng chữ bình dân trong thơ anh có năm tính chất sau đây, chúng bổ sung cho nhau, có khi lồng vào nhau.

Tính chất thứ nhất hay loại thứ nhất, là các thành ngữ, như vừa nói .

Tính chất  thứ hai, các chữ địa phương.

 Mười thế hệ sạch trơn không dấu vết
Trái đất buồn : hạt lệ đứng quay lưng.
 
Sạch trơn là một tiếng thông dụng ở miền Nam.

Các chữ địa phương này có thể có nguồn gốc từ nhiều nơi khác nhau, được dùng rất phong phú, làm nên từ vựng riêng ( diction ) của Du Tử Lê.

 Mai này thế kỷ sang trang khác
Chẳng có ai thừa hơi hát ngao 

Hát ngao , như tôi từng được nghe, dùng nhiều ở các tỉnh miền Trung và ở Sài gòn.
Tính chất thứ ba, các chữ không hẳn là bình dân, nhiều người nói, nhưng người ta chỉ nói mà không viết. Đó là ngôn ngữ nói ( spoken language ) nhiều hơn là ngôn ngữ viết ( written language, literary language ).

ức em ấu trùng đục gốc mùa hạ cũ
trưa cao liền tiếng chim
cây dướn mình uống gió 

Dướn mình là chữ không mới và lại được dùng ở đây rất mới. Thật ra nếu anh viết rướn  thì đúng hơn, nhưng dướn là kiểu phát âm địa phương , lại trở thành một chữ khác, có âm hường lạ, ngọt ngào, thích hợp với tâm trạng.

Tính chất thứ tư, không phải là ở các chữ bình dân, mà ở cách nói bình dân, phổ biến trong một số tầng lớp.

Con đường rộng hai hàng cây đứng lại
Tôi buổi trưa, tàn khốc chia ly 

Ngày trước còn ở Việt Nam, thời trung học, tôi nhớ là , đám bạn tôi cũng hay xài mấy chữ tàn khốc, rất kiếm hiệp, nhưng không ngờ Du Tử Lê lại đem vào thơ tinh tế như vậy.

Tinh tế khó nhận ra hơn, là những cách nói sau đây :

 Sông tuyệt tự hô hào ta đứng dậy
Dang tay ra tựa Chúa kẹt chân tường 

Hay khó nhận ra hơn nữa :

 Chỉ nhớ người thôi đủ hết đời 

Trong thơ Anh Mỹ, có một khái niệm gọi là thơ vernacular (địa phương, bình dân ), nhưng các bài thơ gọi là vernacular của họ không có nhiều tính chất văn học như thơ Du tử Lê, và thường được xếp vào một nhóm riêng.

Du Tử Lê đã góp phần quan trọng vào việc thi hoá ngôn ngữ đường phố, làm cho chúng có một vị trí đáng kể trong thơ anh, và bằng cách đó mà làm cho ngôn ngữ thơ Việt Nam sống động, linh hoạt, có xác có hồn, có máu thịt, có hơi hướm hoang đàng và nam tính, nhưng  riêng tư, thân mật, thuyết phục.
 
Những chữ mới của anh là mới thật :

 Đêm đầu tư thêm cho ngày
Sáng huy hoắc lá, cây lòng dạ chim
 
Chữ huy hoắc là mới, nhưng khi anh đã dùng rồi, khó thay bằng chữ khác. Như thế  ngôn ngữ  Du Tử Lê có tính hiện đại, với nghĩa là gần với đời sống và các thế hệ đương thời, ngoài các suy tưởng và cảm xúc trẻ trung, là nhờ một ngôn ngữ trực tiếp, mạnh mẽ, đôi khi trần trụi, thậm chí bất cần.

Tôi xin dẫn thêm những thí dụ khác, chỉ trong hai câu ngắn :

 Xóc dằn nỗi nhớ. Lem năm tháng
Treo lửng a tỳ nửa trái tim 

Các chữ xóc dằn, lem, treo lửng là những chữ bình dân đương thời. Tuy vậy, thơ anh lại khá xa với ngôn ngữ thuần ca dao, mà ta thường tìm thấy dấu vết rõ rệt trong một số nhà thơ, nhất là các nhà thơ miền Bắc. Có thể một phần là do anh rất ít sử dụng các từ lấp láy, là một đặc trưng của thơ Việt truyền thống và ca dao. Khi sử dụng, anh cũng có vẻ không cố tình, và thường dùng ở thể thoáng đãng.

 Tịch mịch rơi ngang trời thọ thương.
 Hôm nay trời đất lừng khừng.
 
Tịch mịch, lừng khừng là những từ lấp láy. Anh cũng gọi đến các chữ trùng lặp, hoặc vần quyện vào nhau.

 Ngày nghiêng nhớ xuống vai tiền kiếp
Chuông mõ âm âm ngã mạn nào? 
Ngày nghiêng / tiền kiếp / nghiêng tiền kiếp / âm âm / âm âm ngã mạn tạo nên hiệu ứng đặc biệt của tiếng chuông tiếng mõ, nghe rền như một câu kinh. Tuy nhiên nhìn chung thì Du Tử Lê dùng nhiều hơn các vần ở cuối trong thơ bảy chữ và tám chữ, ít dùng vần lưng, vốn là vần gây cảm giác lưu luyến.

Thỉnh thoảng những vần như thế, được anh đặt khẽ, bên nhau, dịu dàng bồi hồi :

 Soi gương thấy lệ ai còn, chảy
Chiếc lá người bay ngoài nhân duyên
 
Ai, chảy, bay, ngoài rung động cùng nhau.
 
Các chữ trong thơ có hai nghĩa, một nghĩa của từ điển, mang tính khoa học để chuyển đi các thông tin rõ ràng, các nội dung cố định, và một nghĩa đặc biệt, mênh mông hơn, mơ hồ , bí mật hơn. Nghĩa thứ hai này  tạo ra sự liên kết bằng các mạch nối ngấm ngầm. Một sự liên kết, liên tưởng như thế đã làm cho ngôn ngữ Du Tử Lê trở nên sâu xa, lay động .

 Lênh đênh hồn cắm sào ngang
Năm ô tuổi nhỏ buồn hoang ngọn cờ 

Du Tử Lê làm mới lục bát là bắt đầu từ những câu thơ như hai câu trên đây. Chúng ta hãy theo dõi anh tiếp.

dấu trong ký ức âm u
cành xương tháng chín. mưa mù tháng giêng.
hồn cây phong úa truy tầm
dấu chân. nghìn dặm. lá mừng. thôi nôi
vàng sau lưng. vàng ghế ngồi
mùa em. thu tím. rừng tôi phía nào?

 
Có ấn tượng như thể lục bát hơi chật chội đối với anh ? Có lẽ thế.
Sự làm mới của Du tử Lê là một hiện tượng đặc biệt. Tôi có cảm giác rằng không phải Du tử Lê làm mới lục bát mà chính lục bát đã làm mới anh, nghĩa là thúc đẩy anh về phía nổi loạn chữ nghĩa : cuộc nổi loạn thú vị nhất trong lịch sử loài người.

 hồn cuối bãi, tim đầu ghềnh
những chai máu lạnh. Ân tình treo cao
vói bàn tay. Vói cõi nào ?
cõi quen hơi hướm. Cõi đào thải, đau.
xe ngang cửa. Sầu lên đèo
vực sâu tiếng thảm. Chim chiều cánh, mư

Bạn có nhớ Huy Cận không ?

 Ngập ngừng mép núi quanh co,
Lưng đèo quán dựng, mưa lò mái ngang
Vi vu gió hút nẻo vàng;
Một hàng thu rộng, mấy hàng cây nao.
Dừng cương nghỉ ngựa non cao
Dặm xa lữ thứ kẻ nào héo hon…
 
So với thời đại của Huy Cận, thời đại của Du Tử Lê và của chúng ta bây giờ khác hơn : hình như càng về sau, nhất là trong và sau cuộc chiến tranh  vừa qua, người ta sống buồn hơn, khinh bạc hơn, gay gắt hơn. Vì mất mát lớn hơn.

Người như thế, cái tình như thế, thì thơ phải như thế.

Về sau anh mở rộng lục bát  bằng cách biến đổi các dấu chấm, dấu phẩy, dấu hỏi, dấu gạch chéo…Điều này dĩ nhiên không giới hạn ở lục bát , mà áp dụng cho tất cả các thể thơ khác.Anh là một trong những người đầu tiên có ý thức rõ ràng về việc làm mới ngôn ngữ bằng các dấu, và nâng nó lên thành một nghệ thuật. Nhờ cách này, một câu thơ có thể chở đi nhiều mệnh đề, nhiều câu văn phạm, đảo lộn chúng, mang lại cho chúng thêm nghĩa khác.

Hãy khảo sát một câu của anh :

 Mặt trời rơi, hẫng, nhớ nhung / đen ? 

Như thế là chữ rơi hẫng đang từ một chữ biến thành hai chữ, từ một ý biến thành hai ý. Anh cũng làm như thế với các chữ như ly biệt, oải muộn, da thịt, gió bão, vân vân bằng cách cắt đôi chúng ra. Nhớ nhung đen trở thành nhớ nhung và đen, mặt trời đen, hay cái rơi là đen?
 
Đôi khi anh rất thành công :

 Gió /nhấm nhẳng/ cất chưng mùa hẹn, hết
Vỗ đôi bờ: xương, thịt ám ui, ui 

Không hiểu sao tôi nhớ mãi câu này của anh, với tất cả những dấu chéo, dấu phẩy, dấu hai chấm rắc rối của nó. Không phải ai cũng nhớ như vậy. Và không phải câu thơ nào của anh tôi cũng nhớ được như vậy. Hai câu thơ trên đây có phải là đã được anh ngắt câu hoàn toàn  phù hợp với tâm trạng của tôi, vào lúc đọc nó lần đầu,  chiều chuyển mưa mây giông vần vũ, ở Texas, một mình, ba năm về trước, chăng?

Trong câu này:

 Ta nghĩa trang nào ? chôn, cất nhau !? 

Hai dấu chấm than và chấm hỏi đi liền nhau là một sự lạm dụng: anh đã đi hơi quá xa sức trương nở của ngôn ngữ. Nhưng dấu hỏi ( ? ) sau chữ nào, dấu phẩy ( , ) giữa hai chữ chôn cất là tiêu biểu cho cách chấm câu táo bạo đẹp đẽ của Du Tử Lê. Và thành công.
Du Tử Lê thường chẻ đôi các chữ kép quen thuộc, trong thơ và trong văn xuôi. Cách chẻ đôi như thế làm cho mỗi chữ, một âm tiết, có một ý nghĩa riêng mà khi dùng chung hai chữ liền nhau, chúng ta vô tình không nhận ra.

 Hạnh phúc nào rơi trên mái tôi
Giầy ai, xin cởi, bỏ hiên ngoài 

Hoặc :

 Không ai hiểu thịt, da tôi bìa sách 

Trong một bức thư riêng anh gởi cho tôi, phần cuối, anh viết :

 Thân, mến. 

Đó là cách nói của Du Tử Lê. Đọc kỹ, chúng rất thú vị. Và thơ mộng.

Nhân dịp này, chúng ta thử xem xét một cách tổng quát hơn, các dấu (marks) và cách chấm câu (punctuation) trong thơ anh, ý nghĩa và cách sử dụng chúng. Biết đâu sau này Du Tử Lê, hoặc các nhà thơ khác, sẽ không triển khai thêm trong thơ họ những phương hướng riêng biệt đầy thú vị bất ngờ?

Dấu trong tiếng Việt đương thời thuộc ba nhóm mà người viết tạm gọi là các dấu ký thanh, dấu của chữ và các dấu nối.

Các dấu ký thanh gồm có: huyền, sắc, nặng, hỏi, ngã, (và không dấu).

Các dấu của chữ gồm có: ă, â, ơ, ư, ô.

Ở đây chúng ta sẽ chú ý đến ( cái tôi tạm gọi là ) các dấu nối,  gồm có năm loại riêng biệt :

 1/ Dấu liên hợp:

- Dấu hai chấm :

Được dùng rất nhiều trong thơ Du Tử Lê.

 Như âm, dương : nào nói nửa lời

Hay

Truy tầm lý lịch : người không bóng 

- Dấu chấm phẩy ;

gỗ lên nước gỗ ; vân lên ngọc
tiếng hát lên mầm nắng, gió thiêng

- Dấu gạch ngang – (dash)

Ít dùng.

- Dấu gạch ngang nhỏ - (linking hyphen)

Được dùng nhiều.

 trước sau nhớ lại: - không sau , trước một đời như thế hỏng hay được  

2/ Dấu bao gồm: - Dấu ngoặc đơn  (  )

Hay gặp.

 trong những bông huỳnh-anhchói vàng (ký ức) 

- Dấu ngoặc kép  “”

- Dấu ngoặc đơn in  [ ]

Chưa được dùng nhiều.

Các dấu chấm, dấu hai chấm, và dấu phẩy chẻ dọc câu thơ, trong khi  các dấu slash lại lắp ghép chúng vào, như người ta lắp các mảnh gương vỡ : chúng vừa bổ sung, làm đầy nhau, vừa chiếu rọi vào nhau, cách ngăn, dang dở. Theo tôi dấu slash sau chữ ta là thú vị, nhưng dấu slash sau em là thừa.

 

3/ Dấu tách biệt:

 - Dấu chấm  .

- Dấu phẩy  ,

 - Dấu hỏi  ?

 - Dấu chấm than  !



Các dấu này thường xuất hiện trong thơ Du tử Lê. Ngay cả dấu phẩy, vốn được nhiều người khác dùng, cũng xuất hiện nhiều hơn.


buồn cân , đo ta trong gương
chiếc khăn gỡ xuống. Tấm lòng máng, lên. 

4/ Dấu bỏ lửng:Chấm chấm chấm …

 Ít gặp.


5/ Dấu đa nghĩa:



Dấu gạch chéo / (slash). Đây là dấu trong văn nói ( spoken ), chưa được chính thức công nhận.



Như trong các ví dụ hay gặp hiện nay: được/bị, đã/đang, và/hoặc.



Chúng được dùng nhiều trong thơ Du Tử Lê .

 dậy thì/ lá/ trên cành sương góa bụahoa ngoại tình : sinh, nở hạt cây thơm



Hay :

truy thân, thế ;tước tưa hình, bóng trí tuệ thơm/mềm/nốt

trắng, đen



Hoặc :

đời sau nào ai hay đâu
bắc ngang sinh tử : cây cầu ta / em/chiều. Sông. Saint. Laurent,



Các dấu chấm, dấu hai chấm, và dấu phẩy chẻ dọc câu thơ, trong khi  các dấu slash lại lắp ghép chúng vào, như người ta lắp các mảnh gương vỡ : chúng vừa bổ sung, làm đầy nhau, vừa chiếu rọi vào nhau, cách ngăn, dang dở. Theo tôi dấu slash sau chữ ta là thú vị, nhưng dấu slash sau em là thừa. Ai đã từng băng qua sông Saint Laurent ở Quebec như tôi một buổi chiều sương xuống ướt đầm trên vai, có tâm trạng gãy nhịp của Du tử Lê trước dòng đời mênh mông vô hạn, chắc sẽ hiểu hơn sự đứt khúc, trắc trở của thơ anh trong bài này.



Việc sử dụng các dấu một cách mới lạ, táo bạo có tác dụng thẩm mỹ ra sao, các nhà thơ nên dùng đến mức độ nào, lúc nào thì dừng lại, lúc nào thì chúng trở nên quá đáng và không cần thiết, đó là những câu hỏi chưa được trả lời . Chúng ta đang bước vào một lĩnh vực mới: thơ thể nghiệm (experimental), nằm ở đường biên mà nhà phê bình duy nhất có thể chứng nghiệm là thời gian . Trong lịch sử văn học và khoa học, có những thể nghiệm không thành công và từ từ mai một, có những thể nghiệm mở đường cho biết bao khám phá về sau.  Nhưng ngay cả đối với những thể nghiệm thơ mà ngày nay chưa có câu trả lời, tôi vẫn thường thấy ở đó cái dấu ấn kỳ lạ của các tài năng thật sự, chúng trở thành nguồn hứng khởi cho những thế hệ khác.



Cần nhắc lại rằng các ẩn dụ có lẽ là phương pháp tu từ quan trọng nhất trong thơ anh. Bên cạnh đó Du Tử Lê cũng dùng  nhiều nhân cách hóa, làm sống động các đồ vật, mang  cho chúng một hơi thở riêng, mênh mang.

 Những đôi nhiễm thể trong tâm mẹTìm thấy nơi em: tượng rất buồn.



Nhân cách hóa là phương pháp thường dùng trong văn chương , không phải là điều mới lạ, nhưng ở Du Tử Lê , nó rất biến ảo, được giữ kín trong cách nói hình ảnh, như viên ngọc trong bàn tay nắm lại của một người phụ nữ. Tôi xin phân tích hai câu thơ của anh :


Chẻ đôi sông núi:  đêm bưng mặt
Mưa quấn khăn vào sâu ấu thơ 



Đây cũng là lời của một ca khúc phổ thơ Du Tử Lê, nên có lẽ nhiều người đã biết và quen thuộc. Chủ từ của câu là đêm, đêm trở thành nhân vật ( point of view ). Người nói cũng là mưa, mưa trở thành nhân vật. Trong một lần cắm trại trên núi đi xuyên qua các tảng đá cheo leo men xuống bờ biển, vào lúc hoàng hôn , mưa quất ngang mặt , tôi đột nhiên nhận ra vẻ đẹp của câu thơ. Đúng là vào lúc đó bóng đêm đã chia đôi biển và núi, ngoái lại mất hút ánh lử trại chập chờn trên cao, chỉ còn  bóng của ngọn núi in lên nền trời đầy mây mù một lúc một sẫm lại . Nhưng sao lại là đêm bưng mặt? Xót thương hay tội lỗi? Hối hận hay tàn nhẫn? Bưng mặt thì không thấy gì nữa, chỉ còn là bóng tối. Bóng tối cuả thiên nhiên, bóng tối bên ngoài của cuộc đời hay bóng tối bên trong của vô thức ? 



Vào lúc đó, anh quấn chiếc khăn lên cổ cho đỡ lạnh, nhưng chiếc khăn của anh không phải là khăn len, mà là chiếc khăn mưa. Nhưng anh cũng không phài là anh nữa, anh đã hóa thành mưa. Mưa quấn khăn cho chính nó, hay là cho tuổi ấu thơ sâu lắng, xa xôi nào? Nhưng anh cũng là đêm, hay là mưa quấn khăn cho đêm , hay là ngược lại, hay là cho ấu thơ ? Các nhân vật đổi chỗ cho nhau, quấn quít bên nhau, bàng hoàng trong nhau trong một phút giây tỉnh thức.



Cái vạch chớp cắt sâu vào vô thức.



Hai câu trên đây là một trong những câu thơ hay cuả Du Tử Lê, sử dụng phương pháp nhân cách hóa .     



Cách tân ngôn ngữ không phải là một trò chơi giải trí. Con người  băn khoăn trước sự bất cập của lời nói: đời sống mỗi cá nhân mang nhiều bộ mặt khác nhau, những kinh nghiệm và thể nghiệm của họ là bất tận. Hãy hỏi chính bạn xem: hạnh phúc nào của bạn, khổ đau nào của bạn, nỗi nhớ thương , sự căm giận nào mà không lớn hơn bất cứ một từ ngữ nào đang tìm cách diễn tả  chúng ? Vì vậy, chữ trong Du Tử Lê, cũng như ở nhiều nhà thơ khác, thay đổi theo thời gian : một mặt, chúng là tấm gương soi của đời sống đương đại, một mặt, bằng vào tài năng riêng của mỗi nhà thơ, chúng mang lại những nội dung mới, động lực mới, cho xã hội mà ta đang sống .



Tôi lấy làm tiếc rằng ngày nay không còn mấy người làm thơ như Du Tử Lê. Những người làm thơ có vần thế hệ sau anh chưa tạo ra được những thành tựu xuất sắc, còn những tài năng mới thì ngày càng có khuynh hướng làm thơ tự do. Số người có thể ung dung chuyển qua chuyển lại giữa hai vùng bút pháp đó thật sự không nhiều. Thơ Du Tử Lê mang lại những ví dụ về cái đẹp của ngôn ngữ Việt Nam: anh có khả năng truyền đi niềm cảm hứng của mình cho người khác. Đọc thơ là một quá trình tương tác, tương thông, sáng tạo và kết hợp.


Tôi sẽ để rất nhiều khoảng trống
Giữa hai gạch chéo/slash
Thí dụ: ……/…... /…... /……/
Trong bài thơ
Mời những người đọc tôi
Hôm nay, ngày mai tham, dự
Không phân, biệt cội nguồn, xuất xứ
Chúng ta: đồng tác giả
Bài thơ xuất hiện lần đầu



Những người viết văn là những tình nhân lớn, bởi vì họ có thể yêu nhau và say mê nhau như thể trong tình yêu ở ngoài đời. Khi đọc, bạn bước ra khỏi chính bản thân mình, hóa làm một với tác giả. Thành tựu của họ cũng chính là thành tựu của bạn, niềm vui sáng tạo của nhà thơ cũng là niềm vui của chúng ta, người đọc. Tôi tin rằng những nhà thơ lớn bao giờ cũng là những người đọc lớn, lấy thành tựu của người khác làm thành tựu cho tâm hồn mình, nhờ chúng mà thế giới mà chúng ta đang sống trở nên dễ hiểu hơn. Nhờ dễ hiểu hơn mà bạn tìm đến được với những bí ẩn lớn lao hơn.



NĐT



READ MORE - NGUYỄN ĐỨC TÙNG - NĂNG LƯỢNG CỦA CHỮ