Đó là một khu chợ vùng quê. Đường
vào chợ có hai vợ chồng người ăn xin, sáng nào cũng dắt nhau đến ngồi dưới gốc
cây phượng bên vệ đường. Chồng đàn vợ hát để kiếm tiền. Người chồng mù cả hai
mắt, người vợ thì cụt bàn tay bên phải. Ngoài
hai vợ chồng, phải kể thêm một con chó vàng, có lẽ của hai vợ chồng người mù
nuôi. Sáng nào người ta cũng thấy con chó chạy chầm chậm phía trước, hai vợ
chồng lẻo đẻo theo sau. Cứ đi một quãng ngắn con chó dừng lại ngoái đầu lui coi
hai vợ chồng người mù có theo kịp không. Như đã quen vị trí, đến gốc cây phượng
con chó sủa lên mấy tiếng rồi ngồi xuống ngoe nguẩy đuôi. Hai vợ chồng vừa đến
chỗ con chó, họ trải chiếc chiếu năn cũ bươm lên mặt đất. Người chồng loay hoay
tháo cây đàn ghi-ta mang ở vai ra. Họ ngồi xép bằng trên chiếu. Người vợ không
quên đặt cái tô ra phía trước để đựng tiền. Con chó thấy cái tô đặt xa mình, nó
lết lại gần như có ý giữ cho chủ. Con chó khôn dữ. Có cậu bé thấy nó lết đến cạnh chiếc tô đã nói như vậy.
Cậu ta tinh nghịch lấy một viên đá ném, con chó kêu oẳng một tiếng bỏ chạy ra
xa. Sau đó nó trở lại nằm bên cái tô. Ve vẫy đuôi không một chút sợ sệt. Hình
như nó cũng biết cậu bé chỉ đùa với nó. Nó có làm gì sai đâu mà đánh nó. Con
chó khôn thiệt. Cậu bé lại nói. Giờ thì cậu ta bỏ đi không ném đá nó nữa. Người
đến chợ đã bắt đầu đông. Người đàn ông mù đánh đàn dạo một khúc. Và người vợ
bắt đầu hát. Vậy mà chị ta lại có giọng hát rất thanh lại truyền cảm nữa. Phải nói thêm là chị ta trông
cũng còn khá trẻ. Chắc cũng vừa qua cái tuổi thanh xuân không lâu, mà có lẽ nếu
không bị sự tàn tật và cảnh đói nghèo dày xéo thì chị ta cũng là người đàn bà
khá đẹp. Người đàn ông trông cũng không phải lớn tuổi lắm. Vì cặp kính mầu to
bản choán khuất đôi mắt anh ta nên khó
đoán được tuổi tác.Vóc dáng cũng mảnh khảnh. Những ngón tay gầy gò nhưng rất
dài bấm vuốt trên những sợi dây đàn
trông cũng khá điệu nghệ và mang một chút lãng tử. Những bản nhạc chị ta hát
thường là những ca khúc thuộc loại nhạc
vàng. Người đi chợ tranh thủ lúc chợ chưa đông cũng bỏ gánh xuống đến bu
quanh nghe chị hát.
Giọng chị thanh tao mà trẻ trung
đến bất ngờ:
Có
ai đã từng nhặt hoa thấy buồn
Cảm
thông được nỗi vắng xa người thương
Chị ta đang hát bài Nỗi buồn hoa
phượng của nhạc sĩ Thanh Sơn.
Cảnh ồn ào chào xáo của những người
đứng chung quanh bỗng im ắng. Tiếng hát truyền cảm của người đàn bà tật nguyền
như đã thu hút hồn họ. Như đã chạm đến tâm hồn họ. Ai không có một thời yêu
thương! Ai không trải qua những giây phút nhớ thương mong chờ. Cái tuổi học
trò, dù được đi học, dù không có cái may mắn để cắp sách đến trường như chúng
bạn thì tình yêu trong lòng mỗi người vẫn như nhau. Vẫn chờ đợi, vẫn thắc thỏm,
vẫn buồn thương, nhung nhớ. Và khi cái tuổi ấy đã trôi vào dỉ vãng rồi thì ai
mà không tiếc nuối. Vậy thì sao không
nghĩ người đàn bà tật nguyền bất hạnh
kia cũng đã có thời sống qua cái tuổi thần tiên yêu dấu ấy. Chị ta đang hát để
kiếm tiền mà cũng có thể nỗi lòng của chị đang rung lên trong giọng hát ấy. Nó
rung lên thật man mác nhẹ nhàng:
Mỗi
lần hè sang kỷ niệm
Người
xưa biết đâu mà tìm
-Giọng hay quá.
-Nầy chị. Vậy thì người đánh đàn
bên cạnh chị không phải là người xưa của chị phải không?
Có nhiều tiếng cười. Người mù đánh
đàn cũng cười:
-Của ai không biết, bây giờ của
mình . Thế là đủ rồi.
Bài hát vừa dứt. Những người đi chợ
vội vàng bỏ những đồng tiền lẻ vào cái tô rồi đặt quang gáng lên vai. Chợ đã
đông.
*
Suốt mấy tháng đông người ta không thấy vợ
chồng người mù dến ngồi đánh đàn ca hát dưới gốc cây phượng trước cửa chợ.
Rồi mùa hè lại tới. Cây phượng đầu ngõ chợ lại
bắt đầu nở những bông hoa đỏ rực đầu tiên. Người đi chợ lại thấy người đàn ông
mù lòa ăn xin xuất hiện với cây đàn ghi ta quang trên vài như dạo nọ. Nhưng
không có người đàn bà dắt đi như trước đây. Con chó vàng đã làm thay việc đó. Người
mù cầm sợi dây xích nhỏ buộc vào cổ con chó vàng nhờ nó dẫn đường. Nó đưa người
mù đến gốc cây phượng, nhưng ở đó bây giờ đã có một chiếc xe nước mía dàn ra
choán chỗ rồi. Con chó nhìn cô gái bán nước mía, nó sủa lên mấy tiếng như muốn
nhắc nhở cô gái đây là chỗ của chủ nó.
-Có gì vậy Vàng?
Người mù hỏi con chó.
-Sang bên kia còn chỗ trống kìa. Cô
gái chỉ tay và nói với người mù.
Người mù thì làm sao thấy được
hướng chỉ của cô gái. Nhưng anh ta cũng hiểu được rằng chỗ của hai vợ chồng anh
ta ngồi trước đây nay đã có người khác choán rồi.
-Thôi qua bên đó đi Vàng.
Người mù nói với con chó. Con chó
vàng cụp đuôi có vẻ thất vọng, rồi kéo chủ nó qua bên cái chỗ trống cách đó
chừng trên mươi mét. Nó lại sủa lên mấy tiếng.
-Được rồi ta ngồi ở đây đi.
Người mù tháo cây đàn ra khỏi vai.
Trải chiếc chiếu năn ra. Tự mình đặt cái tô ra phía trước. Con chó vàng lết lại
bên chiếc tô. Người đi chợ bắt đầu đông dần. Người mù dạo đàn. Bây giờ thì
chính anh vừa đàn vừa hát. Giọng khàn đục.
Mầu
hoa phượng thắm như máu con tim
Mỗi
lần hè sang kỷ niệm
Người
xưa biết đâu mà tìm
Vẫn là bản nhạc Nỗi buồn hoa
phượng, mà vợ anh vẫn thường hát trước đây. Bây giờ có phải anh ta đang hát về
người đàn bà ấy không nhỉ. Hay hai người chỉ có một bài hát ruột ấy mà thôi!
-Chị đâu rồi mà không đi hát với
anh? Một bà đi chợ hỏi.
-Cô ấy bỏ tôi mà đi rồi. Cô ấy
không bao giờ trở về với tôi nữa.
-Vì sao vậy? Thấy hai vợ chồng,
người đàn người hát trông có vẻ ăn ý lắm mà, sao lại bỏ đi. Mà cô ấy đi đâu
vậy? Đi theo người khác hả?
Người đàn ông mù chưa kịp trả lời,
thì một người khác đã nói:
-Thôi mà cái chị nầy, hỏi chi mà
cặn kẽ vậy. Để anh ta hát còn kiếm ít đồng. Chị có bao nhiêu thì cho anh ấy đi.
Hỏi hoàn cảnh người ta làm chi.
Những người đi chợ thay nhau bỏ mỗi
người một ít tiền vào cái tô cho anh ta.
Chợ đã bắt đầu đông. Người mù vét
hết tiền nhét vào túi rồi đứng dậy. Con chó vàng thấy chủ cầm cái tô đứng dậy
chừng như nó đã hiểu ý, cũng đứng lên ngoe nguẩy đuôi.
Con chó vàng dẫn người mù len lỏi
đám đông đi sâu vào giữa chợ. Anh vừa đánh đàn vừa hát. Tiếng hát khàn khàn của
người mù cất lên hòa lẫn trong tiếng ồn ào của cảnh chợ búa.
*
Chợ đang tan dần. Người mù nói với
con chó:
-Thôi ta về đi vàng ơi.
Con chó đi trước, người mù cầm sợi
xích dài bước theo sau.
Mầu
hoa phượng thắm như máu con tim
Mỗi
lần hè sang kỷ niệm
Người
xưa biết đâu mà tìm…
Đang hát người mù chợt nghe tiếng
còi xe rít lên sát sau lưng. Anh hốt
hoảng nhảy sang một bên. Miệng không ngợt gọi:
-Vàng, Vàng, tránh xe đi con.
Hơi nóng của chiếc xe tạt vào mặt
người mù. Lẫn trong tiếng xe, tiếng còi sát bên tai người mù vẫn nghe được một
tiếng kêu oẳng của con chó vàng.
-Sao vậy Vàng, sao vậy Vàng? Người
mù thét lên. Rồi giật giật sợi dây xích. Một cảm giác nhẹ tênh khi anh kéo sợi
xích. Con chó vàng không còn mắc vào đầu dây xích nữa.
Chung quanh anh có nhiều tiếng la:
-Chết rồi, xe cán nát con chó vàng
của anh mù rồi. Tội ghê chưa!
Người mù ngồi bệt xuống đất, tay
quờ quạng tìm con chó vàng.
-Mầy đâu rồi Vàng ơi Vàng! Cô chủ
mày bỏ tao mà đi giờ mầy cũng bỏ tao,
tao biết sống với ai đây! Vàng ơi
mầy đâu rồi.
Người mù vừa khua tay tìm con chó
vừa nói trong tuyệt vọng.
Những người đi chợ thấy trong chiếc xe con vừa cán chết con chó,
một người đàn ông thò đầu ra khỏi xe. Họ đồng thanh la lên:
-Con chó ấy dẫn đường cho anh mù
nầy đi kiếm ăn đấy. Anh liệu mà đền bù miếng ăn cho anh ta.
Người đàn ông từ trong xe vói cổ
nhìn người mù rồi nói:
-Thả chó chạy rông ngoài đường làm
ô nhiễm môi trường lại gây trở ngại lưu thông. Chưa bị phạt vi cảnh còn đòi bồi
thường. Cứ lên tòa kiện đi rồi tôi bồi
thường cho.
Nói xong hắn rút đầu vào và cho xe chạy.
Một người đàn ông chuyên làm nghề
bấm huyệt chữa bệnh và đấm bóp trong vùng bước đến nói:
-Hắn ta nói đúng đấy. Việc chó cán
xe không ai xử đâu, không khéo người ta còn quy lỗi cho mình nữa. Đi theo tôi
để tôi đưa về nhà, tôi biết nhà anh. Tôi vẫn hay đi chữa bệnh, giác lể ở vùng đó. Thôi tiếc con chó làm chi.
Về nuôi con khác. Mà cũng khỏi cần phải nhờ chó dẫn đường nữa. Tôi sẽ truyền
lại nghề làm ăn của tôi cho anh. Ở nhà làm cũng được khỏi phải đi đâu cả.
*
Ở cuối chợ có một vựa cây kiểng có
biển hiệu Vạn hoa. Vạn hoa nổi tiếng có nhiều loại lan đẹp. Không những chỉ những loại lan thường có
ở Việt Nam
mà còn cả những loại lan mua về từ Thái lan, Nhật bản về.
Một hôm có một chú tiểu dẫn một nhà
sư mù cả hai mắt vào hỏi mua lan. Người chủ vựa cây kiểng cung kính chào nhà sư,
ông ta định hỏi nhà sư muốn chọn giò lan nảo, nhưng chợt nhìn lên đôi mắt khiếm
thị của nhà sư ông ta cảm thấy lúng túng không biết hỏi bằng cách nào. Chợt ông
nhìn chú tiểu và nghĩ ngay ra cách hỏi
tế nhị:
-Chú tiểu chọn hoa cho thầy phải
không? Vậy thì mời chú cứ tự nhiên xem qua các loại lan trong vựa.
Vị sư như hiểu ý, mỉm cười:
-Chú tiểu đây còn nhỏ chưa thấy hết
được vẻ đẹp của các loại hoa lan đâu.
Người chủ vựa lại nghĩ: Vậy thì ai
chọn lan cho thầy. Mà thầy thì đâu cần thiết phải có những giò lan thật đẹp.
Chắc chắn là thầy mua về cho nhà chùa rồi. Vậy thì sao nhà chùa không cử một thầy
sáng mắt mà lại cử một thầy khiếm thị?
Người chủ vựa đang phân vân trước
câu nói của nhà sư, một lần nữa nhà sư như đoán được tâm trạng và những suy
nghĩ trong đầu ông chủ vựa, mỉm cười:
-Người mà chọn được những giò lan
đẹp nhất không ai khác ngoài ông chủ vựa đấy. Thí chủ chọn giúp cho tôi hai giò. Giá cả đừng bận
tâm.
-Dạ. Nếu sư thầy đã tin tưởng thì
con xin được chọn hai giò mà con ưa ý nhất cho thầy.
Ông chủ vựa mời nhà sư và chú tiểu
vào nhà ngồi để ông đi chọn hai giò lan. Ông đi quanh vựa một lát rồi mang hai
giò lan trở lại.
-Dạ bạch thầy, con đã chọn được hai
giò lan mà con ưa ý nhất cho thầy.
-A di đà Phật. Cảm ơn thí chủ. Còn
giá cả của nó thế nào cho thầy gởi lại.
Người chủ vựa kêu giá rồi nói:
-Dạ con xin bớt cho thầy ba mươi
phần trăm để lấy phước.
-A di đà Phật. Thầy sẽ dùng số tiền
của thí chủ để làm việc thiện.
Người chủ vựa rót trà ra mời nhà sư
và chú tiểu. Uống xong ngụm trà đầu tiên nhà sư khen:
-Chà, trà của thí chủ mời ngon quá.
Chợt nhà sư cầm một giò lan đưa lên
vẻ như ngắm nghía rồi nói:
-Thí chủ nầy.
-Dạ.
-Thầy biết từ nãy giờ thí chủ thắc
mắc tại sao nhà chùa lại chọn một người khiếm thị như thầy đi mua lan. Nghe ra
có vẻ là chuyện tiếu lâm phải không?
-Dạ bạch thầy con không dám nghĩ
vậy.
Nhà sư lại mỉm cười:
-Có nghĩ vậy cũng không sao cả vì
đó là thực tế. Thí chủ ạ.
Rồi nhà sư nói giọng chậm rãi khoan
thai giông như đang thuyết pháp:
- Không ai cử thầy đi mua cả, thầy tự mình đi
mua thôi. Ở đời không có cái gì là của mình cả. Ngay bản thân mình cũng vậy. Ngoài Chư Phật, Chánh Pháp,
và Chơn tăng ra, cái gì mình muốn đem về cho mình, dù đẹp đẽ quý giá đến
mấy, đều không phải của mình. Con người ta thường đau khổ vì mất cái vốn không
phải của mình. Còn cái gì mình cho là tốt đẹp là quý giá, mà mình đem tặng cho
người khác, đó mới là của mình. Nó không
còn ý nghĩa vật chất nữa mà thuộc về Phật tính. Phật dạy, Phật tính vốn có
trong lòng mỗi người.
Ngưng một lát nhà sư nói tiếp:
-Hai giò lan nầy thầy mua về không
để dành cho thầy ngắm, mà để dành cho các tín đồ đạo hữu, những người đến chùa
để chữa bệnh ngắm. Hoa càng đẹp thì đem
lại nguồn vui cho người xem càng nhiều. Hoa nào rồi cũng tàn cả. Nếu một người ngắm thì nó chỉ mang lại một
niềm vui. Còn nếu có mười người ngắm thì nó mang lại cho đời mười niềm vui. Đúng
thế không thí chủ. Vì vậy nên thầy mới nhờ đến thí chủ là người sành nhất trong
việc chọn hoa.
-Dạ. Con đã hiểu. Qua việc mua hoa,
sư thầy đã dạy cho con một đạo lý hết sức cao cả. Con xin tâm niệm những lời
thầy dạy.
-A Di Đà Phật.
Nhà sư đứng dậy cáo từ.
*
Có tin đồn, mấy năm nay vùng Thường
Trụ xuất hiện một nhà sư mù có đôi bàn tay vàng. Nhà sư nầy có tài bấm huyệt và xoa bóp để chữa bệnh. Nhà
sư từng chữa lành bệnh cho rất nhiều người. Có những con bệnh mà bệnh viện đã
bó tay trả về. Nhà sư đã dựng một thiền am nhỏ và biến nó thành một nơi chữa
bệnh từ thiện. Có người nói: Không cần
phải bấm huyệt, xoa bóp. Chỉ cần ngắm những giò lan trong khuôn viên chùa cũng đủ
làm cho tâm hồn mình thư thái mà khỏi bệnh. Dân quanh vùng người ta tin rằng
nhà sư nầy là một vị La hán giáng trần. Ngài từng làm kẻ ăn xin lang thang khắp
các vùng chợ búa để thấu hiểu nỗi bất hạnh của từng kiếp người rồi tìm cách ra
tay tế độ!
Sài gòn tháng 1- 2015
NBT