Tiểu sử Xuân Đức
Nguồn: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Xuân Đức (1947-) là một nhà văn nổi tiếng tại Việt Nam. Ông được Nhà nước Việt Nam trao Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2007.
Sự nghiệp
Ông tên thật là Nguyễn Xuân Đức, sinh ngày 4 tháng 1 năm 1947, tại xã Vĩnh Hòa, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Thuở nhỏ ông sống cùng gia đình ở quê mẹ tại bờ Bắc sông Hiền Lương. Sau khi tốt nghiệp phổ thông tại Trường cấp ba Vĩnh Linh vào năm 1965, ông thoát ly gia đình và tham gia tiểu đoàn 47 quân địa phương Vĩnh Linh chiến đấu tại vùng núi Quảng Trị, phía Nam bờ Hiền Lương.
Vốn có kiến thức văn hóa, ông tham gia viết bài cho báo quân đội của Khu đội Vĩnh Linh rồi Quân khu 4. Năm 1976, ông được cử tham gia trại sáng tác của Tổng cục Chính trị. Năm 1979, theo học tại Trường Viết văn Nguyễn Du khóa 1. Sau khi tốt nghiệp, ông được phân công công tác tại Đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị. Ông công tác tại đây cho đến khi giải ngũ với quân hàm Trung tá vào năm 1990.
Sau khi giải ngũ, ông về sống tại thị xã Đông Hà, Quảng Trị và chuyển ngành công tác tại Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Quảng Trị, giữ chức Phó giám đốc Sở. Từ năm 1995 đến 2006, ông là Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin, Tổng thư ký Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị. Tháng 7 năm 2006, ông nghỉ hưu
Ông trở thành Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1982, khi còn đang công tác tại Đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị. Ngày 2 tháng 2 năm 2007, ông được Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết ký quyết định trao tặng Giải thưởng Nhà nước chuyên ngành Văn học cho các tác phẩm Người không mang họ (1984), Cửa gió (1982), Tượng đồng đen một chân (1988).
Ngoài ra, ông còn được trao tặng nhiều giải thưởng khác như:
Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (cho tiểu thuyết Cửa gió, 1982);
Giải thưởng Bộ Quốc phòng (cho vở Người mất tích, 1990);
Giải thưởng văn học Bộ Nội vụ (1995) cho tiểu thuyết Người không mang họ;
Giải thưởng Hội nghệ sĩ sân khấu (1995) cho kịch bản Cuộc chơi;
Giải thưởng cuộc vận động viết về chiến trang Cách mạng và người chiến sĩ (1994), Giải thưởng Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam, Huy chương vàng Hội diễn sân khấu toàn quốc cho kịch bản Cái chết chẳng dễ dàng gì...
Giải thưởng kịch bản Sân khấu năm 2007 cho kịch bản "Chuyến tàu tốc hành trong đêm"
Một số tác phẩm:
Tôi yêu đất này của tôi
Đôi khi chợt quay đầu nhìn lại
Thấy những khuôn mặt tối sầm và bóng nhẩy
Tôi ngao ngán nghĩ về ngày mai...
Nhưng tôi yêu mảnh đất này
Dù phải sống chung với lũ.
Dù Thị xã đổi lên Thành phố
Ngõ cụt bốc mùi không đổi được hương quê
Và hội nghị chồng mờ hội nghị
Những khuôn mặt quen không là bạn bao giờ..
Tôi vẫn ăn cọng rau của trăm năm xưa
Vẫn uống nước trong mạch nguồn của đất
Vẫn đốt nén nhang lên bàn thờ tổ tiên
Thay nước lã trên mâm cơm giỗ chạp
Trưa Đoan ngọ đi hái lá mồng năm
Tôi yêu cả nắng vàng đổ lửa
Uống ngụm nước lá vằng chát chúa
Tôi nghiện rồi cay đắng của ông cha.
Nói làm gì bạn ơi chuyện người ta
Mình không tủi nhưng đất thì sẽ tủi
Đất này ơi, ta yêu mày mãi mãi
Dẫu rằng mãi mãi vẫn đất thôi ..
Giờ ngọ, tết Đoan ngọ 2008
Năm tháng ơ hờ năm tháng ơi
Năm tháng ơ hờ năm tháng ơi
Soi xuống hồ, giật mình khuôn mặt lạ ?
Chằng chịt những nẻo đường trai trẻ
Vương trên vầng trán, đuôi mày
Năm tháng ơ hờ năm tháng trôi
Thời gian một đi không trở lại
Em ở đầu nguồn, ta cuối bãi
Ngay cả nhớ nhung cũng rơi vãi thưa dần
Ai xui chiều nay gặp lại
Để ta nhầm ngày xưa ấy còn nguyên
Bao năm phố nuôi ta cỗi cằn
Như nuôi gốc Mai trong chậu cảnh
Bỗng một ngày ta xoè năm cánh
Ngỡ mình vàng ánh sắc xuân tươi...
Ta nhầm hay em nhầm đây ?
Tiếng yêu cứ ngập ngừng như thủa trước
Và trái tim...ôi trái tim nghẽn mạch
Cứ nhịp đôi ham hố đập dồn !
11/5/2008
Nguồn: http://www.xuanduc.vn/baiviet.aspx?id=366&nhom=3
Mảnh làng trong tôi
Vĩnh Hòa, nơi tôi sinh ra, nơi đã gắn bó với cuộc đời cha mẹ tôi, anh em và bao bạn bè khác nữa. Vĩnh Hòa cũng là nơi đẻ ra tên tướng cướp Trương Sỏi mà tôi viết trong " Người không mang họ". Một mảnh làng im lìm và trong trẻo ấy, cuối cùng cũng bị lôi tuột ra giữa nhịp sống hiện đại. Thật sự tôi không biết nên vui hay buồn ? Cách đây một tháng, tôi có dịp về thăm lại và đã viết bài thơ " Vĩnh Hòa". ( đã đăng trên trang web này ) Còn bài bút kí sau đây tôi viết cách đây đã 30 năm. Hôm nay bỗng nhiên muốn đọc lại và muốn bạn bè cùng đọcđể chia sẻ.
Làng tôi cách thị trấn Hồ Xá không xa, người lớn đi bộ gần một giờ, còn trẻ con thì đủ sức níu lấy gánh mẹ mà chạy lon ton từ nhà lên chợ huyện. Thế mà đã có một thời tôi ngỡ cái làng của mình như một miếng bìa rọc bỏ khỏi thân gỗ quý, như bị lãng quên khỏi nhịp tiến văn minh của loài người. Tuổi thơ của tôi lớn dậy trong những lũy tre rậm rịt, bịt bùng, với tiếng ru khàn khàn cuả bà già hàng xóm giữa những buổi trưa xao xác ngọn gió Lào. Chợ kháng chiến họp trong Rú Lịnh, một khoảng rừng còn lại của thời hoang sơ làm ranh giớ cho mấy xã vùng đất đỏ Vĩnh Linh. Có lần giặc Pháp càn về chiếm làng tôi ba ngày, cả làng chạy vào trú giặc trong Rú Lịnh. Vẫn nấu cơm, vẫn mắc nôi ru trẻ và họp chợ. Làng đồng bằng mà cuộc sống không khác mấy dân du mục.
Từ làng tôi đi ngược lên phố huyện, trước đây cũng là một quãng rừng cằn. Một tên thực dân Pháp đã chiếm lấy mở thành Sở cao su. Tuy vậy, rừng vẫn còn nhiều cây cối lúp xúp, đã là nơi trú ngụ của từng đàn lơn rừng, cọp, beo và nhiều hoang thú khác. Dọc con đường lên phố huyện, ngay ở bìa rừng, chẳng hiểu từ đời nào đã dựng lên chiếc am thờ thập thò trong mấy gốc si có bộ rễ chằng chịt, ngoằn ngoèo đến quái dị. Đấy là nơi thiêng liêng khủng khiếp. Tôi không thấy một người dân nào trong làng đến am thờ đó cúng bái, lễ lạc, nhưng hầu như đêm nào cũng được nghe một chuyện ma quái rùng rợn ở chốn âm u đó.
Tôi lớn lên, không hề nhìn thấy một mái nhà gạch. Cả làng có duy nhất một nhà được gọi là giàu thì mái đổ đất, nghĩa là vẫn nhà tranh, rui tre như mọi nhà khác, nhưng phía trên giàn đòn tay được đổ một lớp đất sét để chống cháy. Cuộc đời tôi phải kể ra mấy ấn tượng không phai nhạt về việc khám phá ra "văn minh" của loài người. Đấy là lần đầu tiên tôi nhìn thấy chiếc máy hát quay tay do một cán bộ thông tin của tỉnh mang về dịp giảm tô. Tôi không sao đến gần để nhìn cho rõ chiếc máy, tôi chỉ thấy người điều khiển quay liên tục mấy vòng rồi đặt cái cổ máy cho gục xuống đĩa. Thế là hát. Tôi không thể hiểu được vì sao cái cổ bằng sắt đen bóng như một con đỉa biển kia lại có thể bỏ lên bỏ xuống mềm mại như thế!.
Lần thứ hai, tôi theo bố đi từ nhà khi mặt trời chưa lặn, bới theo gói cơm nhỏ lên phố huyện để "xem" đài. Dọc đường tôi gặp bao nhiêu người khác trong xóm cùng đi. Những đoàn người từ các làng hẻo lánh như làng tôi nườm nượp kéo về Hồ Xá lúc kháng chiến chống Pháp mới thành công chẳng có được mấy nhà cửa. Người ta gắn chiếc loa phóng thanh hút sâu vào đầu hồi một ngôi nhà tranh. Dân quê chúng tôi ngồi san sát phía dưới sân, trật tự, thật nín lặng nghe tiếng đài. Cho đến bây giờ tôi vẫn cứ bẩt bình về việc tại sao hồi đó người ta lại không gắn chiếc loa lồi ra bên ngoài. Thành thử sau một đêm nghe đài no nê, ra về cả làng tôi vẫn không ai biết được tiếng hát, tiếng nói kia phát ra từ đâu. Và cái nhà tranh trên phố Hồ Xá trở nên bí hiểm linh thiêng chẳng kém gì cái am thờ trong Sở cao su người Pháp...
Có ai trả lời được mình trưởng thành từ lúc nào không? Tôi cũng không thể nói cái làng tôi bứơc ra giữa nhịp đời văn minh từ khi nào, những gì nhớ được và kể lại được chỉ là những ấn tượng không thể phai trong ký ức cá nhân tôi mà thôi.
Hình như bắt đầu bằng những điệu múa. Chao ôi, những điệu múa sao mà ngây ngô và dễ thương làm vậy! Tất cả xếp thành một vòng tròn, hát đi hát lại một đoạn lời:
"Nhờ ơn có đảng
Vung tay phát động
Nhà nông chúng ta
Cố gắng tăng gia
Đêm thờ đấu tranh
Ngày ra sản xuất..."
Cứ thế vừa đi vừa múa. Nói cho đúng không phải là múa mà là nhại lại mấy động tác gieo mạ, cấy gặt rồi gánh lúa về. Có thế thôi mà chị hàng xóm cạnh nhà tôi vì không có tốp nào cho đứng chung vào để đi vòng tròn đã khóc ròng rã suốt một đêm. (Bây giờ nhờ trời chị ấy đã thành mẹ của sáu đứa con, có ba là quân nhân cách mạng). Mỗi lần về làng tôi vẫn gặp chị, và không sao quên được cái lần chị khóc vì không được múa. Cái cô gái thiếu niên ngây ngô ấy và bà mẹ chiến sĩ hôm nay, một dấu gạch nối của thời gian thật kinh hoàng dữ dội
Cái dấu gạch nối ấy được chia trọn ra ba phần bằng nhau, y như một sự sắp xếp trọn vẹn của lịch sử.
Nhà thờ Sađi của Ba Tư có 30 năm để học, 30 năm đi thực tế và còn đúng 30 năm cuối đời để viết dưới vườn hồng. Làng tôi có 10 năm để sống đẹp như tuổi dậy thì con gái, 10 năm vật lộn đến tận cùng sức lực với bão táp chiến tranh và còn lại đến hôm nay là chẵn 10 năm để ngẫm nghĩ.
Làng tôi và tất cả các làng quên hẻo lánh khác của Vĩnh Linh bước vào nhịp điệu cuộc sống mới không phải là những cô gái nhà quê ra tỉnh, mà là những cô tấm lam lũ, bần hàn bước về chốn Hoàng cung lộng lẫy. Mười năm xây dựng hòa bình có là bao so với chuỗi dài năm sáu trăm năm trước đó. Những cô gái nhà quê Vĩnh Linh không phải chỉ biết soi gương chải tóc mà có thể nói là đủ tư thế cho bao chàng trai Bác Hà xiêu lòng. Xin đừng cho là quá lời, tôi có thể nói ngay vài dẫn chứng. Đội tuyển bóng chuyền nữ Vĩnh Linh đã làm hoang mang các tuyển thủ mạnh nhất miền Bắc. Đấy là năm 1963. Cũng năm ấy, huy chương vàng bắn súng cũng thuộc về một cô gái Vĩnh Linh sau khi đánh bại tuyển thủ Quảng Ninh ỏ vòng chung kết. Cũng năm ấy, cả hai đội tuyển học sinh giỏi Văn và Toán của Ty giáo dục Vĩnh Linh đã làm cho học sinh phổ thông toàn miền Bắc ngẩn ngơ kinh ngạc. (Đội toán giải nhất, đội văn giải nhì). Ôi, cái năm 1963 thực kỳ diệu! Năm đó Trần Đức Vận đang tốt nghiệp cấp I. Tôi đi nhận phần thưởng học sinh giỏi Văn toàn miền Bắc gặp anh- lúc ấy là một cậu bé đen điu thấp lùn- cũng đến nhân giải thưởng hoc sinh giỏi toán lớp bốn của khu vực Vĩnh Linh. Và hai mươi năm sau, tôi đến gõ cửa phòng riêng của vợ chồng anh tại khu tập thể trường Đại học ngoại ngữ Hà Nội. Chúng tôi nhận ra nhau mà cũng gần như không nhận ra nhau. Tôi trong bộ quần áo lính của hai mươi năm quân ngũ; anh- nhà toán học trẻ tuổi nổi tiếng vào cỡ hiếm có của thế giới ngày nay.
Rồi, tất cả vóc dáng đẫy đà lực lưỡng ấy, tất cả tâm hồn rào rạt đắm đuối ấy lao ầm vào một cuộc chiến tranh một mất một còn với tên Đế quốc lớn nhất loài người. Làng tôi là một trong những trọng điểm của "pháo đài bay không lồ- B52". Tôi nhớ, những ngày tháng 7 năm 1967. Lúc ấy, tôi đang đóng quân ở một làng cạnh làng tôi, nhìn về xóm nhỏ của mình chỉ thấy ngập trời màu đỏ của lửa than và bụi đất. Đầu tiên là những mái nhà bốc lửa, rồi đến những lũy tre, những tán mít, rặng dầu sở, cuối cùng là cỏ. Cỏ tranh cháy rần tật, cỏ mật cháy ngậm ngùi. Một thời hồi xuân của làng tôi đã cháy. Những lối mòn nhân hậu, những thói quen cộng đồng, cả những bảo thủ, hủ tục cũng cháy nốt. Những năm đó đố tìm thấy một bình hương , một bàn thờ, bói cũng chẳng tìm ra một lời khấn vái... Chim chóc bay đi, ong vàng ong mật cũng lánh đi; gà rừng vắng dần đã đành, gà nhà cũng thực hiếm hoi mới nhìn thấy. Đến lượt người già, phụ nữ, trẻ con cũng đi sơ tán ra phương Bắc. Làng tôi trần sùi đàn ông và đất đỏ. Làng lặn sâu xuống địa đạo. Làng cất tiếng hát giọng trầm, tiếng hát của loại cung bậc thâm trầm nhất trong giàn nhạc, cung bậc của gân bắp và sâu thẳm cõi lòng. Cứ thế làng tôi đi qua mười năm nữa, cộng mười năm mượt mà trước đó để có chẵn cái tuổi thanh niên. Hai mươi năm ngọt bùi nghĩ cũng chẳng ai bằng, đắng cay kể cũng chẳng mấy ai sánh được. Nghĩ cho cùng đời một con người có được một khoảng vài chục năm sống hết mình như vậy thì còn phải nuối tiếc điều chi! Nhưng đây lại không phải là chuyện của một đời người. Tuổi của đất của làng dài lắm. Hai mươi năm đâu có bõ bèn. Hôm nay, ngày mai, mai nữa, làng mình sẽ ra sao?
Một bạn văn của tôi thật chân tình, thật tâm đắc đã hỏi tôi: "Tại sao anh lại cứ bám mãi vào cái làng xưa của anh như thế? Có gì chỗ đó mà viết mãi?".
Tôi có thể trả lời với bạn thật dài dòng, cũng có thể trả lời rất gắn gọn. Dài dòng là những chuyện trên dưới nghìn trang. Ngắn gọn là: chỗ đó có tôi.
Tôi trở về lang với tư cách một người đồng thời với cái gạch nối thời gian hai mươi năm ấy. Có lúc tôi cất vang tiếng gọi giữa làng xưa mà nghe mất hút hồi âm của mình. Cái làng đồi đất đỏ cao nhất huyện Vĩnh Linh ấy đã có nhiều sự đổi dạng. Người ta đổ dần ra phía thị trấn, đổ tràn ra dọc theo trục đường Quốc lộ. Lại nghe đồn rằng chẳng bao lâu nữa, cái vùng đất đỏ ấy sẽ được nhập vào một nông trường lớn để trồng cao su...Người hớn hở nghĩ đến ngày mình được thành công nhân Nhà nước, tự mường tượng ra ngày cao su bạt ngàn phủ kính màu đất đỏ, nhựa trắng loang lỗ thân cây. Cả cái bệ làng xưa sẽ ứa dâng tràn trề tìên của! Người lại ngậm ngùi nhớ lũy tre xưa, nhớ cái nhịp điệu kẽo cà kẽo kẹt mỗi khi nồm lên, nam tới. Một nửa số nhà dời đi, một nửa số nhà vẫn âm thầm nằm lại: Tôi mang trong lòng cả hai nỗi niềm ấy. Làng tôi bỗng nhiên thưa thớt những nếp nhà, nhưng lại bộn bề tính toán trăn trở. Cả người đi, cả người ở lại, ai cũng ngổn ngang lo liệu cho tương lai. Giọng hát ru bây giờ xem chừng cũng vội vàng tất bật như làm ruộng khoán. Một gốc cây lưu niên cắm xuống vườn không còn vẻ trầm tư đĩnh đạc như thuở nào mà nhấp nhổm phập phồng trong mọi dự án khoanh vùng tương lai. Biết làm sao khác được. Làng sinh ra đã lâu, thậm chí là đã quá lâu, nhưng ngỡ như bây giờ mới thật sự tới tuổi thành niên, sắp chọn ngành chọn nghề, sắp lấy chồng, sắp ăn riêng lập nghệp. Làng tôi đã khôn ngoan lên. Đứa con khôn lên thường không chịu nằm trong nôi. Tuy vậy, người có nghĩa là người khi đã trưởng thành vẫn cầm chặt tao nôi ru cho con cháu mình được yên lành giấc ngủ.
Nghĩ vậy, mà tôi trở về làng. Tôi sẽ ở lại với người ở lại và cùng đi với ai ra đi. Tôi sẽ viết bài báo tuyên truyền hùng hồn cho cái nông trường cao su kia và viết đôi dòng lục bát về câu ra khàn khàn của bà già hàng xóm mỗi khi gió lào xao xác. Bởi một lẽ đơn giản là, cái nông trường bạt ngàn kia thì chưa hiện hình mà bà gìa nhà bên thì đã khuất. Mủ cao su còn lâu mới làm bạn với làng còn câu ru thì hiện thời côi cút. May mà cũng còn kịp. Trong tôi, trong anh, trong bao nhiêu người nữa vẫn còn nguyên vẹn những mảnh làng . Những mảnh làng cứ vằng vặc sáng trong tâm thức mỗi người trên con đường đi tới một cộng đồng vĩ đại hơn: Tổ quốc và no ấm. Tôi nghĩ thế và tôi tin như thế, anh bạn văn tâm đắc ạ. Vì vậy mà tôi lại trở về làng.
Vĩnh Linh- 1978
Nguồn: http://www.xuanduc.vn/baiviet.aspx?id=366&nhom=3