Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Tuesday, December 9, 2014

ĐỒNG KHÁNH ƠI TÌNH MÃI NHẸ BAY - Nhạc và lời: Thảo Nguyên, giọng ca: Thanh Hoa


    


           Nhạc và lời : Thảo Nguyên
           Tiếng hát: Ca sĩ Thanh Hoa
           Hoà âm: Võ Công Diên
           Video clip: Phú Đoàn


    ĐỒNG KHÁNH ƠI TÌNH MÃI NHẸ BAY


    Về trường xưa
    Về nguồn suối mát trẻ thơ
    Thiên đường mộng mơ ngút xa
    Ngút xa
    Chập chùng nhung nhớ

    Về trường xưa
    Lặng nhìn áo trắng đong đưa
    Nghe hồn ngẩn ngơ
    Vọng hương xưa
    Dò lối cũ
    Chào nón nghiêng nghiêng
    Nghiêng nghiêng vui đùa

    Tình Đồng Khánh Huế

    Mắt biếc ngời trăng thu
    Môi mọng rực nắng hè
    Tóc thề nhẹ bay bay
    Hương quyện theo gió lay
    Gió lay

    Bên cổng Đồng Khánh xưa

    Một thời bịn rịn áo trắng đong đưa
    Suốt mấy mùa trải nắng mưa
    Vẫn âm thầm chờ đợi đón đưa

    Hạ tới, bướm trắng dìu dặt chào nắng mới
    Phượng thắm chập chờn rơi chơi vơi
    Gió rối hay tóc ai vương bay bay vời vợi
    Thu sang nghe hiu hắt lá vàng
    Gót hoa nghe thao thức bàng hoàng
    Ôi mắt biếc ngỡ ngàng
    Vờn mây loang nắng vàng trôi phiêu lãng
    Bềnh bồng hồn đi hoang

    Trống trường dồn vang vang
    Dập dìu Trường Tiền, rợp bến Hương Giang
    Phố phường bướm trắng loang
    Tình vướng khói vướng mây
    Đồng Khánh ơi, tình mãi nhẹ bay, nhẹ bay, nhẹ bay

                                             Nhạc sĩ Thảo Nguyên
  
READ MORE - ĐỒNG KHÁNH ƠI TÌNH MÃI NHẸ BAY - Nhạc và lời: Thảo Nguyên, giọng ca: Thanh Hoa

TÌNH LÀ HƯ KHÔNG - Nhạc Phạm Anh Dũng - Tiếng hát Hiếu Trang




READ MORE - TÌNH LÀ HƯ KHÔNG - Nhạc Phạm Anh Dũng - Tiếng hát Hiếu Trang

VƯỜN HOA BÊN CỬA SỔ - truyện ngắn Nguyễn Bá Trình



Vườn hoa bên cửa sổ
  
 Nghe tin tôi nhận công tác tại thị xã Phan thiết ba mẹ tôi rất lo.  Con gái, cất thân dặm trường trong hoàn cảnh chiến tranh đã là điều làm cha mẹ không ai là không lo. Hơn nữa cái thị xã nắng cát nầy rất xa lạ đối với ba mẹ tôi, dù ba tôi trong quá trình công tác cũng đã từng thuyên chuyển qua nhiều tỉnh từ miền Trung đến miền Nam. Nhưng Phan thiết thì ông chưa đến bao giờ. Vì vậy khi biết  tôi đã nhận giấy công tác tại tỉnh Bình thuận, cha tôi có vẻ không vui, ông hỏi: Không còn nhiệm sở nào nữa sao?

Tôi trả lời giọng tin tưởng:

-Phan thiết cũng là một thị xã ven biển đẹp mà ba, nơi ấy có nhiều thắng cảnh lắm, như Chùa Ông Hoàng, tháp nước ngọt của ông hoàng xứ Lào xây cất…

-Nhưng đường đi từ Huế vào đó trắc trở lắm. Con phải đi máy bay từ Huế vào Nha trang hay vào Sài gòn rồi từ đó mới sang máy bay để về Phan thiêt. Đường bộ thời gian nầy ít ai đi.  Đoạn đường qua Sông Mao nghe  nói rất nguy hiểm.

Ba tôi nói thêm về cái nơi tôi sắp đến nầy: Bình thuận từ xưa  không phải là vùng đất lành chim đậu. Đấy là đất của người Hời. Có hai vùng đất mà người xưa rất sợ, là hai tỉnh Khánh hòa và Bình thuận. Cọp Khánh hòa, ma Bình thuận. Con có nghe bao giờ chưa?

Tôi cười:

-Ma cọp là chuyện đâu xa xưa kia. Giờ Khánh hòa là một  tỉnh giàu có và văn minh  nhất nhì miền Trung. Về kinh tế còn hơn cả Huế mình nữa. Bình thuận cũng thế. Người Hời để lại những công trình kiến  trúc cổ  độc đáo đẹp mất hồn đấy ba ạ. 

Ba tôi im lặng không nói gì trước ý kiến của tôi. Có lẽ ông nghĩ điều  tôi nói cũng đúng phần nào.

   Chuyện ma quỷ như ba tôi nói không biết có hay không nhưng chuyến đi từ Huế vào Bình thuận thì quả thật quá nguy hiểm. Theo lộ trình chuyến đi, tôi phải bay từ Huế vào Nha trang, sau đó đi tiếp chuyến  bay Nha trang – Bình thuận.

 Nhưng đến Nha trang thì tôi mắc kẹt tại đó, Vì Nha trang – Bình thuận mỗi tuần chỉ có hai chuyến bay mà chuyến  đầu  tuần mới cất cánh sáng hôm qua. Nghĩa là tôi phải đợi đến ba bốn ngày nữa mới có chuyến tiếp theo. Tôi quyết định đi xe đò vì sợ trễ ngày trình diện ở nhiệm sở.

 Ngồi trên xe tôi thắc thỏm không yên. Thỉnh thoảng tôi lại thấy xác một chiếc xe khách hoặc một chiếc xe nhà binh lật bên đường vì trúng mìn.  Có chiếc  nát cả cabin, có chiếc  gãy đôi ở giữa. Đi một đoạn lại thấy một cái miếu thờ. Có cái khói hương còn nghi ngút. Tôi ớn lạnh xương sống. Đi mà như thể chẳng khác gì mình đã phó thác mạng sống cho bom đạn dọc đường. Tôi ân hận. Biết thế nầy thì tôi không đi nữa. Liệu có tới được Phan thiết để nhận việc không hay bỏ xác dọc đường. Nghĩ vậy tôi chảy nước mắt. Những người ngồi trong xe tất cả đều im lặng, không một ai chuyện trò. Có lẽ trong tâm tư họ cũng đang trĩu nặng mối lo âu không nói ra như tôi. Chợt một người đàn bà ngồi cạnh tôi quay sang tôi nói nhỏ, dù tiếng xe ù ù tôi vẫn nghe rõ giọng nói của người khách : Sắp đến Sông Mao rồi. Tôi nhìn người đàn bà không hiểu ý bà ta nói gì. Tôi hỏi: Sông Mao thì sao cô? Người đàn bà nhìn tôi  không trả lời.. Hình như xe chạy chậm hơn. Có gì chăng? Tôi tự hỏi. Sông Mao là ở đâu? Đến Sông Mao thì xẩy ra chuyện gì? Tôi thắc thỏm bởi những câu hỏi như thế từ lời nói không rõ ràng của người đàn bà. Chính vì bà ta không giải thích làm cho câu nói của bà trở nên bí ẩn. Ma Bình thuận! Tôi nhớ lại câu nói của ba tôi. Tất nhiên tôi không tin Sông Mao là nơi có ma. Trong đầu óc tôi lóe lên một ánh sáng. Đúng rồi, có thể là như thế. Vậy là tôi sợ đến run lên. Sao mình lại liều lĩnh đi bằng xe đò nhỉ. Nếu mình bị họ bắt đi rồi thì ba mẹ mình biết tìm mình ở đâu. Mình có chết đi thì cũng chẳng ai biết. Trời đất! Sao mình không nghĩ đến điều nầy trước khi có quyết định lên xe nhỉ.

 Bác tài xế cho xe chạy chậm hơn rồi quay lui dặn:

-Ai đưa gì thì lấy nấy. Không được từ chối. Muốn đọc thì đọc, lúc nào tôi bảo thả ra ngoài xe thì thả ra, nhớ không ai được giữ lấy  trong người đấy. Nhớ chưa?

Tôi chẳng hiểu gì cả. Sao mọi người trên xe nầy đều có những câu nói bí ẩn như vậy ?. Tôi quay sang người đàn bà bên phải tôi. Đến bây giờ tôi mới có một nhận xét là những người ngồi trên chiếc xe nầy đều là đàn bà, tất nhiên trừ bác tài. Tôi hỏi:

-Bác tài xế dặn gì vậy chị?

-Ông ấy dặn sao thì cô cứ làm đúng vậy.

Xe dừng lại bên đường. Đây là nơi nào mà hai bên đường cây cối um tùm. Có thể xe đang đi qua một đoạn đường xuyên rừng. Chợt bác tài xế nói lớn:

-Đến Sông Mao rồi. Cứ ngồi yên trên xe không ai được xuống.

Hình như có ai đó đang bước ra từ bụi rậm. Một người, hai người. Họ  mặc quân phục, đội mũ tai bèo, lưng mang súng. Tôi nhận ra ngay hai người đều là nữ, còn rất trẻ. Trên tay họ mỗi người mang một xấp giấy gì đó, chừng như là giấy báo. Tôi hiểu họ là ai rồi. Tôi cố giữ cho hai tay mình khỏi run. Cả hai bước lên xe, và chen vào các băng ghế, lần lượt phát cho khách đi đường mổi người một tờ giấy in đậm chữ mực đen. Một người đến trước mặt tôi và chìa ra cho tôi một tờ truyền đơn. Tôi cầm tờ giấy và cúi xuống giả bộ tháo chiếc giày. Tôi ngẩng lên và bắt gặp người nữ quân nhân đang nhìn tôi mỉm cười. Vẻ sương gió không làm mất đi nét trẻ trung linh hoạt trên khuôn mặt của hai nữ chiến sĩ quân Giải phóng. Tôi nhanh chóng lấy lại bình tĩnh. Người ấy  nói:

-Có gì mà chị sợ dữ vậy. Chúng tôi đánh Mỹ cứu nước, chị là người dân lương thiện chẳng có gì phải sợ cả. Tôi gởi đến chị lời kêu gọi của Chính phủ Cách mạng. Hãy đọc đi và cùng chúng tôi đứng lên chống Mỹ.

Khi phân phát xong truyền đơn cho khách trên xe trước khi hai nữ quân nhân bước xuống   bác tài xế lôi trong cabin ra một cuộn báo lớn trao cho hai người. Tôi nhận ra đấy là mấy tờ báo phát hành dưới chế độ Sài gòn. Bọc ngoài tập báo là tờ Tin Sáng. Hai nữ quân nhân nhận báo rồi  bước xuống xe.

 Xe tiếp tục chuyển bánh. Tôi không dám ngang nhiên lấy tờ truyền đơn ra đọc, chỉ lén nhìn lướt qua, tuy vậy tôi cũng hiểu được. Nội dung truyền đơn vạch tội ác của Mỹ và kêu gọi người dân đứng về Cách mạng. Đọc xong tôi bối rối. Mình phải làm gì với tờ truyền đơn trên tay đây. Nhìn quanh, tôi làm theo mọi người.Tôi cẩn thận xếp tờ truyền đơn xuống đáy chiếc túi xách. Xe đi được một đoạn chừng năm sáu cây số, bác tài nói:

-Thả ra ngoài xe đi.

Nhiều người thả truyền đơn ra khỏi xe đúng vào khoảng đường mà xa xa có nhiều  nhà dân ở.  Tôi làm theo. Về sau, nghĩ đến sự việc nầy tôi hiểu ra một điều thật lí thú. Chính bác tài xế cũng là một người đang làm công tác tuyên truyền cho Cách mạng. Bác ấy đã khôn  khéo nhờ hành khách trên xe  mang  truyền đơn đến thả tận những khu dân cư mà quân Giải phóng chưa đến được. Xe chạy thêm một quãng nữa thì dừng lại. Một chiếc lô cốt giăng đầy kẽm gai chình ình hiện ra bên đường. Tôi hiểu tất cả mọi chuyện. Chúng tôi vừa ra khỏi vùng kiểm soát của Chính quyền Cách mạng và đang đi vào vùng kiểm soát của Chính quyền Sài gòn. Tất nhiên chúng tôi không thể giữ tờ truyền đơn trong người. Có lẽ bác tài và những người trên xe đã làm những động tác lúc nãy một cách thành thuộc bởi họ đi lại trên tuyến đường nầy nhiều lần. Chỉ có tôi là bỡ ngỡ trong những cách xử trí vừa rồi. Một vài người lính thủy quân lục chiến đi quanh xe, mắt láo liêng nhìn vào xe. Chừng như không thấy gì khả nghi, một người khoát tay ra dấu cho xe chạy.

  Cuối cùng tôi cũng đã đến thị xã Phan Thiết an toàn. Đúng như câu nói của ai đó: Mặt đất là nơi nguy hiểm nhất của con người.

Gia đình mà tôi đến trọ  trong những ngày đầu là gia đình chú Danh, bạn của ba tôi. Lúc ra đi ba tôi đã viết một lá thư gởi gắm tôi cho chú.

Chú Danh là một doanh nhân lịch thiệp và  chu đáo. Đọc thư ba tôi, chú rất vui. Chú dành cho tôi một phòng  riêng  trên gác, bên cạnh phòng đứa con gái duy nhất của chú kém tôi chừng vài tuồi. Cô bé tên Loan, đang học năm cuối trung học và đang ôn thì. Loan cũng dễ thương, hiền lành có khuôn mặt giống mẹ. Mẹ Loan, thím Lan còn rất  trẻ. Duyên dáng, có một vẻ đẹp thuần hậu. Khi hai mẹ con ngồi gần nhau, nếu không biết thì ai cũng tưởng là hai chị em. Nhận xét đó tôi có được khi gặp thím Lan trong bửa cơm tối đầu tiên với cả gia đình. Có một điều lạ là vẻ mặt của thím  có một nét gì u uất. Thím  ít nói. Chỉ hỏi tôi vài điều rồi cười nụ cười thật hiền hòa dễ gây cảm tình. Buổi đầu gặp chú thím và bé Loan tôi hoàn toàn yên tâm và nghĩ rằng mình có thể lưu lại nhà chú thím một thời gian, không vội đi tìm nơi ở trọ. Chính thím Lan cũng đã nói ý đó với tôi. Tối đó tôi đã viết thư cho ba tôi kể về những cảm nghĩ của mình lúc đến nhà người bạn của ba để ba mẹ tôi yên tâm. Ở lại nhà chú Danh được một ngày, buổi sáng hôm sau, chú  dùng chiếc lambretta  hai bánh chở tôi đi tham quan vài thắng cảnh ở Phan thiết. Trước hết là tháp nước hình bát giác dựng ở một vị trí đẹp đẽ trên đường  ra biển. Chú giới thiệu cho tôi biết tháp nầy do hoàng thân nước Lào là  Xu Pha Nu Vông thiết kế lúc ông sang học kỷ sư ở nước ta. Chú Danh còn chở tôi đi tham quan lầu  Ông Hoàng. Nơi thi sĩ Hàn Mặc Tử và người yêu là Mộng Cầm có một thời lui tới ở đó. Nói là tham quan thực ra chúng tôi phải đứng xa lầu đến vài cây số phóng mắt nhìn xem. Không rõ hình dạng lầu Ông Hoàng ra sao, chỉ thấy một vệt đen mờ mở nhô cao trên một ngọn đồi không cao lắm.

Sau đó chúng tôi ra bãi biển Phan thiết xem dân nghề biển đi đánh cá về. Chú mua về một ít cá bò bảo là loại cá nầy chỉ có biển Phan thiết mới có.

Chú Danh đưa tôi về nhà  đã hơn mười giờ trưa. Chú vội vã chở thím Lan đi chợ.

 Tôi bước lên thang gác, nửa chừng  chợt khựng lại  khi nghe có tiếng người đàn ông gào lên đâu đó:

 -Đói quá, đói quá, nó không cho tôi ăn. Nó muốn giết tôi.

Rồi có tiếng con gái:

-Ba làm thinh đi  đừng gào lên như thế. Con sẽ mang cơm vào ngay.

Tiếng của bé Loan!  Thế nầy nghĩa là sao? Tiếng gào của người đàn ông và tiêng năn nỉ của cô gái phát ra từ đâu? Trong căn nhà nầy có phòng nào nữa mà tôi không thấy? Rõ ràng ở tầng trệt có một phòng khách, một phòng ngủ có lẽ của chú thím, và sau cùng là phòng ăn chung với nhà bếp và toa let. Tầng trên có ba phòng, một tôi đang ở, một của bé Loan còn phòng trước là để thờ tự. Tôi mới có dịp ghé vào phòng của Loan còn gian thờ thì tôi chưa vào. Tôi vốn có thói quen kỳ cục. Đến nhà nào tôi cũng thích xem gian thờ cúng. Xem họ theo tôn giáo nào và xem mặt những người quá cố. Vào nghĩa trang viếng mộ ông bà thế nào tôi cũng dạo quanh những ngôi mộ gần đó để xem người chết họ tên gì, sinh năm nào, chết lúc mấy tuổi, mặt mũi họ ra sao. Có lần vui miệng tôi nói cái ý thích kỳ cục của mình cho mẹ nghe và bị mẹ tôi tát cho một cái đau điếng cùng cái nhìn nghiêm khắc mà chẳng nói gì cả.

Chẳng lẽ những tiếng ấy phát ra từ gian thờ cúng? Tôi  rón rén bước lên gác và hé mắt nhìn qua gian thờ sực nức mùi hương khói. Nhìn quanh  dưới gầm thờ, tôi chẳng thấy ai cả. Tiếng gào của người đàn ông lại vang lên.

-Đói quá, nó quyết giam không cho tôi ăn.

Nhưng lần nầy thì không nghe tiếng của Loan. Tôi nhận định, hình như tiếng nói ấy phát ra từ bên ngoài ngôi nhà nầy. Tôi chợt nhớ ra, hình như ở bên hông nhà có xây dôi ra một bức vách,  rộng chừng ba mét hoặc hơn một chút. Nhưng không phải là cái phòng vì tôi đâu thấy cửa, dù là cửa sổ. Hay có cửa quay lui phía sau, ở ngoài đi vào không thấy? Có lẽ thế. Vậy thì người trong phòng ấy là ai mà bé Loan gọi bằng ba.  Chú Danh không phải là cha của bé Loan vậy là gì của cô bé? Mà mình cũng chưa có dịp nghe cách xưng hô của bé Loan với chú Danh. Mình đến nhà nầy mới có hai ngày nên  chưa kịp hiểu gì về những thành viên trong nhà cả.

 Tính tò mò trỗi dậy trong tôi. Tôi xuống  tầng trệt. Thấy  chú Danh và thím Lan đi chợ chưa về, tôi giả vờ tản bộ qua phía bức vách và vòng lui phía sau. Giống như mình vô tình đi tham quan quanh nhà. Thế nhưng tôi đi chưa hết bức vách đã thấy bé Loan từ phía sau trở ra, đôi mắt đỏ hoe. Tôi định hỏi nhưng Loan đã nói:

-Chị đừng lui sau đó.

Nghe Loan nói tôi bước trở lại.

Tối hôm ấy  thấy bé Loan không ngồi học bài như mọi hôm, cô bé ra lan can đứng một mình, tôi đến cạnh. Giọng tâm sự không làm ra vẻ  tìm hiểu, tôi hỏi Loan:

-Có chuyện gì trong cái phòng kín ấy em kể chị nghe được không? Không phải chị tò mò, lúc trưa tình cờ chị nghe tiếng đàn ông gào thét làm chị sợ quá.

Loan lặng im một lát nói rồi nói:

-Không có gì đâu chị, nhà em có người bệnh phải nuôi cách li sau phòng ấy.

Người nhà của bé Loan là ai, mắc bệnh gì mà phải cách li? Mà rõ ràng tôi nghe Loan gọi bằng ba kia mà. Tôi nghe có nhầm không?

Thấy Loan có ý giấu, tôi chưa vội hỏi. Nhưng tôi nghĩ thế nào mình cũng phải hỏi cho ra, lỡ  người ấy mắc bệnh truyền nhiễm nguy hiểm thì liệu tôi ở trong nhà có ảnh hưởng gì không?



                                                    *

Chưa có dịp nào thuận tiện để hỏi Loan. Và hai hôm tiếp đó tôi không còn nghe tiếng gào thét của người đàn ông nữa. Tôi đoán chừng có lẽ hôm ấy người nhà của người bệnh cho ông ta ăn cơm trễ nên ông đói mà gào lên như vậy.

Sáng nầy thứ hai nhưng tôi không đi dạy bởi nhà trường cho nghỉ mấy ngày sau khi đến trình diện để tôi thu xếp chuyện ăn ở.  Tôi đóng cửa phòng nằm trên gác đọc sách. Có lẽ chú Danh và thím Lan tưởng rằng tôi đã đến trường, hai người đã nói với nhau những điều riêng tư mà không giữ ý. Dù không tò mò nhưng trên gác tôi không thể không chú ý đến lời qua tiếng lại giữa hai ngừoi.

Giọng thím Lan không to lắm nhưng có cái âm hưởng hơi khác với những lúc thím trò chuyện ở nhà:

-Khi anh ngỏ lời với em thì em đã nói, em không thể bỏ anh ấy trong tình trạng sức khỏe như thế được. Anh ấy dù đã mất trí, nhưng  vẫn còn sống. Trong lúc con Loan thì chưa đủ điều kiện để săn sóc cha nó. Nhưng anh nói em cứ lo săn sóc anh ấy, cũng như nuôi nấng con Loan anh không có ý kiến gì. Sao giờ anh lại tỏ ra khó chịu mỗi khi anh thấy em ra vào săn sóc cho cha con Loan?

Giọng chú Danh vẫn như mọi khi:

-Đúng là anh đã nói như vậy. Nhưng em nghĩ anh đã chịu đựng cảnh nầy mấy năm rồi em biết không? Đã gần bốn năm trời rồi, quả thực anh không thể chịu đựng thêm nữa trước cái cảnh em dành gần như toàn bộ thời gian nghỉ ngơi để lo săn sóc cho cha con Loan mà không quan tâm gì tới anh. Em, nghĩ co` người đàn ông nào chịu đựng được mãi như thế không. Mà bây giờ anh có cấm em đâu. Anh bảo em đi thuê một căn phòng riêng cho anh ấy và giao bớt việc lại cho con Loan. Con Loan giờ cũng đã lớn rồi. Em nghĩ em sẽ cột chặt đời mình vào với một người không còn trí nhớ như vậy cho đến hết đời sao? Anh nói hết đời là hết đời của em đấy. Anh biết  em sống giờ nầy cho anh ấy chẳng qua là vì trách nhiệm và  nghĩa cũ, nhưng điều nầy anh có cấm em đâu. Anh sẵn sàng đi thuê một chỗ tiện nghi sạch sẽ hơn chỗ anh ấy đang nằm đây, nếu cần thì thuê một người để săn sóc cho anh ấy. Anh đâu có ngại chuyện tốn kém. Còn em phải có thời gian để sống cho mình và. anh nữa chứ. Em thực sự không quan tâm gì đến anh sao?

-Là người dưng thì không ai có thể lo cho anh ấy được chu tất cả anh ạ. Ngay cả việc giao cho con Loan em cũng không yên tâm. Thì biết làm sao?

Hai người lặng thinh một lát, sau đó nghe tiếng thím Lan:

-Anh Danh à. Em hiểu tấm lòng của anh. Những gì anh dành cho anh ấy cũng xuất phát từ chỗ anh yêu thương em. Và những gì anh nói ra hôm nay cũng không phải là anh ghen tuông gì. Không ai đi ghen với người xem như đã không còn tồn tại trên mặt đất nầy nữa. Tất cả anh đã làm được cho anh ấy trong mấy năm nầy cũng vì em thôi. Em hiểu điều ấy. Hay là thế nầy, đây là lần cuối cùng em đề nghị lại, thôi chúng ta quên nhau đi để em trở về với trách nhiệm của em. Nó như là cái nợ của em đã vay rồi, không thể không trả được.

Hai người lại lặng thinh. Một lát rồi có giọng của chú Danh:

-Nếu vậy thì anh không phải chịu đựng đến mấy năm  thế nầy đâu. Thôi để anh  gọi con  Loan xuống đây nói cách giải quyết của chúng ta như vậy xem ý kiến nó thế nào.

-Em xin anh nó đang lúc chuẩn bị thi cử, đừng làm  bức xúc mà ảnh hưởng đến chuyện học của nó. Thôi anh cứ nghe theo lời em đi. Chúng ta đã không  duyên nợ, khiến trời ra tay ngăn cản thì thôi.

Lại im lặng. Lần nầy thì sự im lặng kéo dài thật lâu. Cho đến lúc tôi nghe tiếng xe máy đi ra ngõ. Vậy là chú Danh đã ra khỏi nhà và  có lẽ câu chuyện của hai người cũng không có hướng giải quyết. Và cũng có thể đây không phải là lần đầu chú Danh và Thím Lan nói với nhau những điều như vậy.



Sau nầy tìm hiểu ra tôi biết được chú Danh và thím Lan đã yêu nhau từ thời học sinh, nhưng do hoàn cảnh hai người đã không đến được với nhau. Thím Lan lấy chồng. Sau khi sinh  Loan  chồng thím là một sĩ quan trong chế độ cũ đã bị thương ở đầu và  bị loạn trí. Biết được hoàn cảnh của người yêu cũ, Danh  đến gặp Lan và bày tỏ mình muốn chia sẻ gánh nặng cho Lan. Ngày tháng đã làm nẩy nở lại tình cảm trong lòng hai người và họ đã đến lại với nhau.  Danh bằng lòng để Lan đưa người chồng cũ của mình về nhà xây một căn phòng bên cạnh khá tiện nghi để săn sóc.



 Một tuần sau khi biết rõ hoàn cảnh trong gia đình chú Danh, tôi xin phép chú thím dời sang ở nhà của một cô bạn gái đang độc thân cùng dạy trường với tôi.

Cứ hàng tuần tôi đến thăm Loan và hai vợ chồng chú Danh. Hình như chú thím cũng biết  tôi đã hiểu rõ hoàn cảnh của hai ngườ  nên không cầm ở lại.

Tôi dạy học ở Phan thiết cho đến những ngày cuối tháng tư năm 1975. Tình hình chiến tranh lúc nầy đã đi vào giai đoạn của ngọn lửa  bừng lên trước khi dập tắt. Tôi không liên lạc được với gia đình ngoài Huế.

Phan thiết là thị xã vùng biển đang chộn rộn lên với những đoàn người trong bộ máy chính quyền SG tìm cách vượt biên. Tôi tìm đến nhà chú Danh để xem chú có dặn dò gì tôi không vì chú Danh là người rất có trách nhiệm hơn nữa lại được sự gởi gắm của ba tôi.  Đến nơi thì chú Danh cho biết chú đã chuẩn bị xong cho chuyến vượt biên và định cho Loan sang tìm tôi. Tôi nhất định không vượt biên,  trước hết là ba mẹ tôi còn ở Việt Nam, ra đi như vậy biết có gặp ba mẹ lại được không. Sau nữa là qua chuyến đi từ Nha trang vào Phan thiết vừa rồi, tôi đã thấy được sự thực, không giống như những gì tôi đã nghĩ trước đây. Nhưng chú Danh nhất định không chịu cho tôi ở lại. Chú hỏi tôi một câu đơn giản nhưng thiết thực: Cháu ở lại thì lấy gì mà ăn trong những ngày loạn lạc tới đây. Cả thím Lan cũng khuyên tôi nên đi. Vậy là tôi đành phải theo ý kiến của chú thím ấy.

Tối đó, tôi cùng chú Danh và Loan lên tàu. Thím Lan không đi theo. Tôi hiểu lí do vì sao.

                                                           *

Tôi sang Mỹ và tìm  việc làm tương đối thuận lợi bởi tôi dạy tiếng Anh. Sống ở Mỹ một thời gian tôi bắt liên lạc được với gia đình. Trong thời gian nầy tôi có bạn trai là thanh niên  người Miền Trung  du học theo diện tự túc ở Mỹ. Tôi vẫn thường liên lạc thường xuyên với chú Danh và Loan. Loan cũng đã có chồng. Chú Danh thì vẫn ở vậy. Chú kể: Sắp đến chú sẽ làm thủ tục bảo lãnh cho thím Lan sang Mỹ. Tôi có hỏi Loan thì biết ba của em đã mất.

  Phải gần sáu năm sau ngày xa quê hương, tôi và bạn trai về  nước để tổ chức đám cưới. Bạn trai tôi là con của một gia đình có công Cách mạng nên sau khi đất nước thống nhất anh xin về nước dễ dàng hơn những người khác. Đám cưới xong tôi vào Phan thiết để thăm thím Lan. Gặp lại thím Lan, hai thím cháu vui mừng đến thế là cùng. Cứ tưởng hoàn cảnh loạn li chắc thím cháu chẳng thể nào có dịp gặp nhau. Thím Lan già hơn trước nhưng vẫn giữ được nét thùy mị đoan trang. Tôi để ý thấy căn phòng trước đây dành để chăm nuôi ba  Loan giờ đã được phá hết không còn  dấu tích nào. Thay vào đó là một vườn hoa nho nhỏ. Ở phòng khách, mới thông thêm một cửa sổ nhìn ra khu vườn. Hồi tôi mới đến đây  cửa sổ nầy chưa có. Qua khung cửa, tôi thấy những cánh hồng tươi thắm rung rinh trong gió sớm.

Tôi nghĩ có lẽ thím Lan trồng vào vị trí căn phòng ấy những khóm hoa là để xóa đi cái hình ảnh  sẽ gợi lên trong thím những kỷ niệm đau buồn. Qua đó thím cũng muốn tìm một chút thanh thản cho lòng mình trong tháng ngày còn lại. Mà sao lại không làm như thế. Thím là người xứng đáng được hưởng hạnh phúc.

 Tôi hỏi thím:

-Ước muốn của thím sau khi được sang bên Mỹ là gì hở thím?

Thím Lan cười:

-Cũng chẳng có ước muốn gì lớn lao. Chỉ mong có dịp bù đắp những gì chú Danh của cháu đã hy sinh cho thím.

Thím Lan nói và nhìn ra vườn hồng.

Trong mắt thím, tôi thấp thoáng thấy bóng dáng cả vườn hoa.                    

                           Viết theo chuyện kể của Bích Liên
                                       Nguyễn Bá Trình

Nguồn: nguyenbatrinh.com
VNQT đăng lại với sự đồng ý của tác giả.


READ MORE - VƯỜN HOA BÊN CỬA SỔ - truyện ngắn Nguyễn Bá Trình

Thơ Chu Vương Miện: LÊN ĐƯỜNG, BẬU (BẬU QUA)



lên đuờng

ngôi chuà ẩn trong nuí
lá bồ đề trên đầu
rễ phụ thòng khoảng giưã
gốc đề bám đầy rêu
ta theo ngươì lạc ngõ
tơí đây nhá nhem chiều
nghỉ hiên chuà một tôí
ngoaì kia chim rừng kêu
tiếng chuông cùng tiếng mõ
đêm daì đêm tịch liêu
nhấp một hơi nước lạnh
lòng cũng nhẹ đi nhiều 





bậu (bậu qua)

thuở trước không đến vơí nhau vì bận học 
bây giờ không đến vơí nhau vì bận làm 
ôi dào đức Phật đầu thai bao nhiêu kiếp 
vội vã làm gì cuỉ vơí than
thôi cứ tự nhiên như ngươì hà nội
chuyện ruồì bu đừng có vội vàng 
vội quá thì vấp ngay cục đá
vàng thì dây rọi dập vào lưng
vã thì lăn quay ra đất
trước hay sau cũng phải xếp hàng
hai kẻ cứ dửng dưng bồ nhìn coi lúa
sóng đủ bờ tản mạn giữa đại dương
lỡ mai mốt có kẻ lăn ra ngỏm
kẻ sống kia không rõ thắp cơn buồn
giưã cuôí muà thu lá vàng bay theo gió
chân ngươì thơ không lẽ laị ngôì yên 
chả lẽ tù mù theo tuần sương muôí
rải tầm tầm trên buị sả luống hành
ngọn kinh giới tiá tô lăn ra chết
chả kịp chờ dù trời chữa sang đông
ta lỡ lạc nhau từ bao kiếp
thì năm nay lạc tiếp cũng vô chừng 
thì cứ kể đồng hồ không ngươì lái
cứ dềnh dàng quay đủ vạn bến mong 

                       chu vương miện
READ MORE - Thơ Chu Vương Miện: LÊN ĐƯỜNG, BẬU (BẬU QUA)