VIẾT VỀ ÔNG LÊ CUNG (MINH CẨN)
Thời
gian mãi trôi đi, cuộc sống nào cũng đến lúc xế chiều rồi khuất bóng nhưng
những điều tốt đẹp thể hiện qua thơ ca của một con người sẽ mãi lan truyền
trong nhân gian.
Hôm nay, cầm trên tay tập thơ của ông Lê Cung, bút hiệu Minh Cẩn người
làng Trường Sanh – Quảng Trị, tôi thật bồi hồi, xúc động nhớ về một quá khứ
tuổi thơ, nhớ những âm điệu trầm bổng khi ngâm những vần thơ mà ông vừa sáng tác về quê hương.
Sinh ra trên vùng đất không được màu mỡ, khô cằn như bao vùng khác trên
tỉnh Quảng Trị, đời sống người dân rất chật vật, khó khăn (Mùa đông thiếu áo,
mùa hè thiếu cơm). Nhưng cũng chính hoàn
cảnh khó khăn ấy mà sản sinh ra nhiều con người tài hoa về thơ ca, hò vè như
ông Lê Văn Tuệ, ông Lê Dư, ông Võ Mẫn, v.v… và ông Lê Cung cũng là một trong
những con người như thế.
Vì hoàn cảnh gia đình, năm 1984 ông Lê Cung phải rời quê hương, định cư
tại Bình Thuận, rồi vào Trị An – Đồng Nai, sinh sống cùng con cháu và đến năm
2011 thì mất, hưởng thọ 91 tuổi (1920 – 2011).
Xuất phát từ những tình cảm kính mến đối với nhà thơ Lê Cung, hôm nay
tôi xin trân trọng giới thiệu một số bài thơ mà ông đã sáng tác qua từng thời
kỳ về quê hương Trường Sanh với độc giả gần xa.
Minh
Đạo
Bài Đường luật sau đây là một trong những bài thơ ông viết
khi đang làm nhiệm vụ trấn giữ đảo Hoàng Sa (1943).
1- Bốn bề vắng vẻ cảnh hoang sơ
Lấp ló vầng trăng tỏ lại mờ.
Giọt điểm ly sầu sương tí tắc
Khơi niêm trường hận rế u ơ
Gió lay phốt phát nghe xao xác
Sóng lượn san hô bãi nhấp nhô.
Biết tỏ cùng ai tâm sự ấy,
Quê nhà quá nhớ ruột vò tơ.
Kéo rớ tại cổng Biền Quan
(1957)
Cứ mỗi sáng đàn bà bưng đi chợ,
Và mỗi chiều vác rớ chạy bờ sông
Xóm tôi nghèo tôm cá vẫn nhờ chung
Độ lương thực gia đình vài ba tháng,
Tiết thu đông tự chiều cho đến sáng
Tôi canh phòng thử cá lội khi mô,
Bỗng giữa sông nghe oạp một cái to,
Miệng nhầm khấn lại ngài cho con nớ.
Thế là tay nhè nhẹ nâng cây sào rớ
Cóng vù lên có khi
hỏng khi may
Cũng có khi vát tối với vát mai
Họa đổi được năm mười
loong gạo
Tiết đông lạnh mảnh mong chiếc áo
Gió heo may lạnh buốt tận xương,
Quá khuya không chịu nỗi suốt đêm trường
Bỏ tơi xuống nữa nằm nữa đắp.
Mưa phùn rơi ướt dầm mái tóc,
Hai bàn chân ăm ắp đầy bùn,
Bỗng giật mình vừa ngáp vừa run,
Mới ghé tỷ, ôi chao, trời mau rạng,
Được, chim chạng vạng, cá thì tang tảng.
Có con mô, vát sáng, kiếm vài con.
Bà con ơi, tui đã hết sức bòn,
Cá mụn lắm, hôm nay không mấy cả
Xếp rớ lại, tay chao,tay vã.
Về mau thôi, chợ đã sắp đông.
Nhớ Trường Sanh
(1997)
Nhớ và nhớ trong tình thương nỗi nhớ
Đất Trường Sanh nơi phụ mẫu sinh thành
Dọc hói Ô Khê đi học trường làng,
Chợ Bến Đá cũ trước trường tiểu học,
Chợ cây lớn voi ”vua” hay ghé cột (nghỉ)
Nay đất trường làng đã dựng ngôi đình,
Mảnh đất nầy bao thế hệ học sinh,
Lời giảng dạy nền luân thường đạo lý,
Đất kết tụ, ngọc hoa, bao tinh túy,
Địa linh, sinh tuấn kiệt, ứng tương lai.
Giáp Mỵ, năm xóm, dọc một dãy dài,
Từ Thượng An về xóm Sen đình cũ.
Cỗng Biền Quan, ngăn phòng mùa lụt lũ,
Lúa hè, thu, cho tất cả cánh đồng.
Đường ga cũ, mấy troong nước xóm Trằm,
Hào cây rậm, liên ranh, Vời, Hậu giáp,
Trằm Vụng, Trằm Khang, bốn mùa ẩm ướt,
Ngôi chùa xưa ở sát bờ Vời.
Dọc theo quốc lộ cũ, một dãy dài
Mấy troong nước dĩ, chảy về đồng nội,
Phe tư Diên sanh có phân mốc giới,
Khoai Trưa Trào dọc xuống hói Canh đào .
Cổng nội phủ, phòng, thu nước lũ vào.
Mấy hói nhỏ chắp giáp dòng sông lớn.
Cổng Hà Cháu, hói Bàu Pheo xuôi lượn,
Chốn Dà Dây, bụi tre một Âm hồn,
Bụi la ngà độc chiếc giữa cánh đồng,
Giáp cạnh thôn Đông, bên sông bên ruộng,
Hói ông Vũ, hói thuở xưa, cửu đoạn,
Cửa lấp ngang, khúc hói đã thành đìa,
Hói mới đào, phân ranh giới xóm đò,
Hàng tre “dăng”, dọc lên miền Rộc lộ.
Đường vận tải cồn cầu, đường thuở nọ,
Bến thôn Trung,cho đến tận truông Voi,
Giữa Trung, trường, như một, một mà hai
Điểm Dà là đình vừa dời năm trước,
Trường tiểu học, chợ, đưa lên trạng cát,
Trụ sở chính quyền
đóng sát kề bên,
Khuông Tịnh Đức đường
một cũ mặt tiền,
Nhà giáo xứ hư nền thời giông bão,
Trạng cát trắng từ Trung, sang Mỵ, Hậu.
Quí tiền nhân khai sáng trên 600 năm
Cộng hoang cồn, thủy thổ, dự ấp lân.
Châu bộ ký, trên 2000 diện tích,
Bao gầy dựng bao công trình hữu ích,
Ơn tổ tiên sự nghiệp biết bao la,
Gương hiếu, trung, nhân nghĩa, kết tinh hoa,
Tuy tứ giáp, như một
nhà huynh đệ.
Mấy mươi ngôi miếu vũ, tương tuyền kế thế,
Mười mấy ngôi nhà thờ họ trang nghiêm,
Lạy thần hoàng, bổn thổ địa linh thiêng,
Phù hộ cho dân yên làng thịnh vượng.
Dân lập nghiệp di cư ngoài vạn dặm,
Nhớ cây đa,chốn cũ, bến đò xưa,
Ngồi nhớ buồn,tả nhớ, một vần thơ,
Xin bổn xã âm dương tình quãng lượng.
20- 6- 1997
( Để gởi tặng bà con người làng Trường Sanh ta ở xa xứ sở
quê hương trên mọi miền đất nước )