Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Wednesday, August 6, 2014

Thơ Chu Vương Miện - GIANG CHÂU, CHO QUA



Giang Châu

mình chả có nhau nên chi đường quá rộng
để hai bên cỏ mọc loạn xà ngầu
mình chả có nhau nên chi đường quá dài
đi tìm mà lại lạc Tô Châu
vấn an Trương Kế thì đã khuất
thôn ô đề trăng lặn từ lâu
nhìn lên một trời sương muối mỏng
cổ tự Hàn San mỏm giang đầu
bến phong cũng màn sương dầy đặc
lửa chài leo lét giữa canh thâu
dẫy núi ngang không núi sầu ngủ
ngân nga chuông đổ xuống thuyền câu
lữ khách trọn đêm say thơ rượu
từng tiếng chuông chùa rơi trên sông
ngoại hình sông nước lạc Giang Châu





cho qua

lời em hứa là lời hứa cuội
anh dại khờ chờ đợi 7 năm
hỏỉ rằng em hứa chắc không
đáp rằng lúc đó nói bông nói đùa
đêm trăng sáng tua dua mọc đó
sao hôm còn bỡ ngỡ theo trăng
mới hay đêm đó đêm rằm
chòm sao bắc đẩu qua sông ngân hà
thì ra em nói cho qua


                              chuvươngmiện
READ MORE - Thơ Chu Vương Miện - GIANG CHÂU, CHO QUA

THƠ ĐƯỜNG CHỌN DỊCH: NGUYỄN BỈNH KHIÊM - Phạm Đình Nhân dịch - Dịch giả Ngọc Châu giới thiệu




15. NGUYỄN BỈNH KHIÊM
(1491 – 1585)

       Nguyễn Bỉnh Khiêm, danh sĩ đời nhà Mạc, tự là Hanh Phu, hiệu Bạch Vân cư sĩ. Ông còn có tên khác là Văn Đạt. Ông quê làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại , nay là huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Năm 1535 ông đỗ Trạng nguyên lúc 44 tuổi. Làm quan đến Tả thị lang Bộ Lại kiêm Đông các Đại học sĩ. Sau 8 năm làm quan ông xin về trí sĩ năm 1542, về làng làm nhà gọi là Bạch Vân am, mở trường dạy học bên giòng sông Hàn (Hàn Giang), còn có tên là Tuyết Giang, vì thế còn gọi ông là Tuyết Giang Phu tử. Tinh thông lý học và tướng số. Dù đã về hưu, Mạc Phúc Hải vẫn tỏ lòng kính trọng, phong ông tước Trình Tuyền Hầu (1544), rồi lại thăng ông là Thượng thư Bộ Lại, tước Trình Quốc công, do đó nên thường gọi là Trạng Trình. Năm 1585 ông mất, thọ 94 tuổi. Thơ văn còn truyền tụng có Bạch Vân thi tập gần 200 bài vừa quốc âm vừa Hán văn.

                      70.  XUÂN  HÀN

Nguyên tác:  春  寒

十  二  韶  光  春  一  團
一  天  料  峭  送  餘  寒
輕  陰  借  雨  侵  花  易
 残  雪  因  風  墜  柳  難
鏽  闥  佳  人  低  玉  帳
香  街  醉  客  蹙  金  鞍
旋  乾  自  有  神  功  在
已  播  陽  和  滿  際  蟠


Phiên âm:  Xuân hàn

Thập nhị thiều quang[1] xuân nhất đoàn,
Nhất thiên liệu tiễu tống dư hàn.
Khinh âm tá vũ xâm hoa dị,
Tàn tuyết nhân phong truỵ liễu nan.
Tú thát giai nhân đê ngọc trướng,
Hương nhai tuý khách xúc kim an[2].
Toàn kiền tự hữu thần công tại,
Dĩ bá dương hoà mãn tế bàn[3].


Dịch thơ :         
Rét mùa xuân
                         Phạm Đình Nhân
                         Dịch 2007

Xuân sang nay đã mười hai
Tiễn đưa cái rét một mai ấm dần.
Trời râm nhờ có mưa dầm,
Tuyết tan gió cuốn phủ dần liễu dương.
Giai nhân màn gấm rủ buông,
Ngoài kia thơm nức, khách vương vấn gì?
Càn khôn xoay chuyển một khi,
Khí dương reo khắp chu vi đất trời


Rét xuân
                       Ngọc Châu
                       Dịch 2013

Sang xuân đã quá mười hai ngày
Tiễn rét đi chờ ấm đến đây
Trời ẩm mưa phùn gày bóng liễu
Tuyết tan gió cuốn mỏng màn mây
Giai nhân buông rủ màn hoa thắm
Lãng khách tơ vương hương đượm bay
Xoay chuyển càn khôn vào tiết mới
Khí dương bao phủ cả trời này.

(Còn tiếp)


READ MORE - THƠ ĐƯỜNG CHỌN DỊCH: NGUYỄN BỈNH KHIÊM - Phạm Đình Nhân dịch - Dịch giả Ngọc Châu giới thiệu

Viết ngắn: MẸ CHA VẪN NHỚ THƯƠNG CON! - Phan Kỷ Sửu

Tác gải Phan Kỷ Sửu


Ngày cuối tuần cuối tháng 11 năm ngoái, tôi cùng với anh Sáu, người bạn thân thiết của tôi, về thị trấn Tân Châu dự ngày giỗ của anh Năm, người anh ruột của bạn tôi. Cách đây vừa tròn năm năm, anh ấy đã đột ngột ra đi sau một cơn đau tim ở cái tuổi ngoài năm mươi, bỏ lại người vợ hiền và ba đứa con thơ cùng nỗi đau da diết cho các bậc sinh thành và các anh chị em còn lại. 
Đám giỗ hôm ấy lại do chính gia đình bác Sáu, cha mẹ của người quá cố, tổ chức chứ không phải là vợ con anh ấy như tục lệ của các gia đình Việt Nam khác. Bác trai năm nay đã 87 tuổi và bác gái cũng đã 85. Ở cái tuổi ấy đáng lẽ chỉ có việc nghỉ ngơi là chính, thế nhưng hai bác vẫn tự tổ chức cúng giỗ cho con trai mình và mời các con cháu về dự đông đủ. 
Có ai ngăn được cảm xúc không trước tấm lòng của những người làm cha mẹ như thế? Bác Sáu gái cho biết là bà rất nhớ anh Năm, hình bóng của anh từ thuở còn thơ ấu, từ giấc ngủ êm đềm trong vòng tay, trong lời ru ngọt ngào của mẹ, vẫn luôn thấp thoáng trong giấc mơ giọng nói tiếng cười của anh dẫu đã xa lắm rồi nhưng vẫn còn đâu đó dư âm… Bà cũng thường ngỡ như “Chắc nó vừa đi đâu đó ấy mà…” Bà tâm sự:
-Hồi còn nhỏ nó thích ăn những thức ăn nầy lắm, cho nên bữa nay tôi nấu để cúng nó. Tôi nấu không thiếu món nào hết!
Một câu nói đơn giản như vậy thôi cũng khẳng định được lòng mẹ hiền bao giờ cũng là biển Thái Bình sâu rộng, cũng diển tả được chiều cao của núi Thái trong suy nghĩ của người cha. Và những kỷ niệm về người con dẫu chỉ còn trong hương khói bất chợt sống lại trong từng câu chuyện kể của Bác Sáu gái. 
Và riêng tôi, hình ảnh của cả hai bác khiến tôi bâng khuâng nhớ đến cha mẹ kính yêu của mình. Đã mười mấy năm dài ông bà không còn nữa. Tôi không bao giờ còn có những bữa cơm, bữa giỗ họp mặt đông đủ cùng ba mẹ, anh em như vậy cả, buồn lắm chứ. Nhưng bất chợt tôi cảm thấy mừng cho anh bạn Sáu của tôi nhiều lắm. Anh cũng đã ngoài 50 rồi thế mà song thân vẫn còn mạnh khỏe. Đó là một hạnh phúc vô biên của cả đời người mà không phải ai cũng có.

                                                PHAN KỶ SỬU


READ MORE - Viết ngắn: MẸ CHA VẪN NHỚ THƯƠNG CON! - Phan Kỷ Sửu

NHỚ CON NƯỚC LỚN, BUỒN LAY LẮT BUỒN. - thơ Hoài Huyền Thanh



Nặng lòng chi chút dư âm
Chỉ là cánh nhớ âm thầm đó thôi
Như con nước lớn đất bồi
Bờ bao ai chặn, một đời long đong
                
Em nheo mắt hứng giọt buồn
Đan tay vuốt mặt bồn chồn lòng Anh
Thẩn thờ ký ức mong manh
Trao ai niềm nhớ chòng chành nỗi đau
                
Nghĩ rằng chặt dứt tình nhau
Bứt xiềng đoạn xích tình đầu phôi phai
Hay đâu biển rộng sông dài
Nhớ con nước lớn buồn lay lắt buồn!
           
                          Hoài Huyền Thanh


READ MORE - NHỚ CON NƯỚC LỚN, BUỒN LAY LẮT BUỒN. - thơ Hoài Huyền Thanh

DUYÊN - NGHIỆP - truyện ngắn Trạch An-Trần Hữu Hội

                             
                                                 
Tác giả Trạch An-Trần Hữu Hội


    Thức chờ chủ nhà, trong lúc chuyện trò với bà chủ, anh cố hình dung người chồng. Là một nhà giáo, lại dạy Đại học, có lẽ là một người có vóc dáng bệ vệ, gương mặt mập mạp sung túc và tự mãn bởi những gì đạt được trong đời… Khi người đàn ông hiện ra nơi cánh cửa, mọi hình dung của anh tan biến, trước mặt anh là một người đàn ông vừa người, có vẻ hơi gầy, cao và gương mặt thì hiền hậu với nụ cười cởi mở.
    -Chào anh, đợi có lâu lắm không?
    -Không Thầy ạ. Tôi cũng vừa đến thôi.
    Bỏ cái cặp da cũ lên chiếc ghế, chủ nhà quay qua người vợ:
    -Em làm nước uống nhé, anh không bận gì chứ?
    -Vâng,
    -Có lẽ chúng ta nên anh em cho tiện, tôi sáu mươi, vừa xong thủ tục hưu, còn anh?
    Thức vui vì sự cởi mở thân tình của chủ nhà:
     -Vậy là tôi thua anh ba tuổi.
     Anh đã xem nhà, giá cả cũng đã thỏa thuận. Nhưng cả hai lần đều không gặp ông Trung, chủ nhà thực sự. Việc chủ nhà yêu cầu gặp và nói chuyện với anh trước khi bán làm anh cứ băn khoăn không biết có gì đó khuất tất về quyền sở hữu hay là một mắc mướu gì đó về thủ tục…
     Ngồi vào bàn, Thức xoay nhẹ ly nước, im lặng nhìn ông Trung như chờ đợi. Ngồi nhích vào cho bà vợ cùng ngồi, ông Trung  nói :
     -Hôm xem nhà, anh có thấy căn phòng nhỏ nằm phía cuối hàng cau không?
    Thức có nhớ mang máng, căn phòng nhỏ nằm cuối khoảng đất chừng bốn mét bên hông nhà, nhờ khoảng đất này mà căn nhà thêm giá trị, anh cho căn phòng có lẽ là nhà kho hay bỏ trống nên không yêu cầu xem bên trong, giờ ông Trung nhắc đến làm anh hơi bở ngỡ.
     -Có anh, nhưng thế nào ạ?
     -Diện tích nó là 4mx3m, mấy năm nay tôi cho hai cha con một người bạn ở, bây giờ bán nhà, không biết họ sẽ thế nào?!
     Thức hơi ngập ngừng:
     -Ông ấy không cùng ông lên Di Linh sao?
     -Bạn tôi thì có thể nhưng cháu nhỏ đang đi học nên khó. Vì thế tôi không biết anh có sẵn lòng giúp cho đến hết năm học này không, từ đây đến đó còn khá lâu?!
     Thức hơi ngập ngừng:
     -Nhà tôi cũng chỉ ba người, hai vợ chồng và đứa con gái vừa mới đi làm, cháu đầu lập gia đình, vợ chồng cùng đi dạy ở Nha Trang…Nhưng tôi cũng bàn lại với nhà tôi rồi sẽ báo lại với anh. Anh ấy làm gì hả anh?
     -Anh ta bị mù, ăn xin quanh Sài gòn với cô con gái.
     Thức ồ lên một tiếng nhỏ, thoáng chút ngỡ ngàng. Một người mù, ăn xin, lại là “bạn” của một thầy dạy Đại học!
                                              oOo
      Ông Trung làm thủ tục chuyển nhựơng và giao nhà thật nhanh chóng, có lẽ do ông khỏi phải mua nhà ở Di Linh, cùng với sự nôn nóng của bà vợ, họ muốn lên trên ấy càng sớm càng tốt. Song thân của bà ấy đang phải sống những ngày già cả với nỗi buồn quạnh vắng từ ngày cậu con trai đột ngột từ trần ở tuổi ba mươi chín. Không vợ con. Hai tháng nay phải nhờ người cô cũng đã luống tuổi chăm nom.
       Vợ Thức không khó khăn gì với yêu cầu cho “người ăn xin” và cô con gái lưu lại một thời gian trong nhà. Nhưng hơi tò mò về “người bạn” của ông Trung và tình cảm của họ với nhau thế nào!
       Chiếc xe mướn chất đồ đạc lên xong thì cũng đã chín giờ tối, phần nhiều những đồ đạc gia dụng để lại cho chủ mới, chi mang đi những gì cần thiết, thế mà cũng gần một chiếc xe tải trung. Phải dành một góc xe cho chù chó giống Phú Quốc, không biết sáng mai khi lên xe chú có chịu nằm yên không, hai ngày nay chú đã không chịu ăn, cứ nằm nơi cửa phòng ngủ của ông bà mà rên ư ử! Bà Trung tuy nôn nóng nhưng không muốn chạy đêm. Tài xế cho xe nép sát vào cổng nhà rồi đóng cửa cabin nằm ngủ, bà cũng lên phòng mình, khi đi ngang qua hai người, bà nhìn ông Trung với đôi mắt đỏ hoe !
       Còn lại hai người. Phòng khách giờ trống trải hẳn đi vì thiếu những cuốn sách trên giá, những bức tranh trên tường… Chiếc bàn và bộ sa-lon vẫn còn nguyên nhưng mất đi mấy tấm hình của các đứa con ông Trung chụp hồi nhỏ và tấm hình lớn ông Trung chụp cùng các thầy cô hồi dạy ở Đại Học Đà Lạt.
      Thức cười vu vơ khi nghỉ: Một vài bức ảnh, vài cuốn sách, đôi khi lại là cái gì đó làm nên không gian và sự sống một căn nhà. Anh lại liên tưởng đến đôi mắt đỏ hoe của bà chủ nhà, lúc này chắc đang nhìn căn phòng thân quen với bao hoài niệm…
        Ông Trung đứng lên, đến bên chiếc bàn nhỏ kê sát tường, cầm chai rượu đưa ngang tầm mắt, nhìn Thức cười:
        -Chúng ta làm vài ly chứ? Hai mươi mốt năm ở nhà tập thể, hai chúng tôi dành dụm lắm mới tạo dựng được cái  nhà này gọi là cơ ngơi… Giờ xa nó cũng buồn !
        Thức ái ngại đứng lên:
        -Nên lắm, nhưng anh đễ tôi đi kiếm chút gì đưa cay.
        -Nhà tôi có mấy con mực… Nhờ bà ấy bật lò nướng chút là xong.
        -Thôi, khỏi phiền cô. Với Sài gòn thì giờ này còn sớm mà anh.
        Thức đứng dậy, dắt xe ra ngỏ. Khi tiếng máy xe nhỏ dần, ông Trung lên phòng ngủ, vợ ông ngồi dậy, ông đến bên bà ôm lấy đôi vai, nhìn lên trần nhà nói thật nhỏ:
        -Anh nhớ hồi mua được đám đất này, anh mừng đến độ gặp ai cũng khoe, viễn cảnh thoát được nhà tập thể như rất gần, vậy mà mười hai năm ki cóp nó mới thành hiện thực! Hôm dọn nhà mới là sinh nhật lần thứ bốn mươi hai của em. Ôi, đúng là một sinh nhật tưng bừng… Tưởng sẽ sống những ngày an nhàn sau hưu trì, ai dè…
       -Em có buồn nhưng không tiếc đâu anh, lên cùng bố mẹ cũng vui mà. Dù sao, nơi ấy cũng đã cho em những tháng ngày thơ ấu và thanh xuân thật tuyệt diệu… Anh không nhớ những khóm dã quỳ và hai cây trạng nguyên ở cổng nhà sao?
       -Có, anh xin lỗi em. Nụ hôn đầu tiên của chúng ta cũng nơi ấy, khóm trạng nguyên tuyệt vời!
       Anh lại ôm chị, lâu lắm rồi, cả hai tìm môi nhau, họ hôn nhau vụng về, nồng nàn… như thủa ban đầu, ở tuổi sáu mươi… và như thế cho đến khi nghe tiếng xe máy vào ngõ.
                                                    oOo
       Thức vào nhà, như đã là chủ nhà chính thức, anh trải ra bàn nào thịt gà, sò và thịt dê nướng…
      Ông Trung vụng về mở chai rượu, loại Rhemy Martin bình thường, rót đầy hai chiếc cốc trà:
        -Nào, chúc mừng cho cả hai nhé.
        Thức cụng thật kêu, có lẽ về khoản  nhậu thì anh hơn hẳn chủ nhà, anh nhận thấy thế khi thấy ông Trung loay hoay với cái nút chai. Rối cạn ly rượu trong khi ông Trung chỉ nhấp một ngụm quá nửa cốc!
       -Cái khoản này thì anh cứ tùy nhé, coi bộ anh không “chuyên nghiệp” rồi.
       -Ừ, mình ngồi nhấp với anh em thì khá bền nhưng uống thì chỉ vài ly! Nếu hôm nay uống không hết, vài hôm bạn tôi về, chú Thức nhâm nhi cùng anh ấy nhé. Anh ấy tên Khả.
       -Tiện anh Trung nhắc đến người bạn, tôi hỏi một chút, vì sao mà anh quen và đưa anh ấy về ở cùng?
      Ông Trung nâng ly rượu, nhấp môi, ông đã ngồi cùng Khả nhiều lần, thường thì từ tối đến nửa đêm… Những mẫu chuyện dời Khả đan xen những bản nhạc mà Khả cất lên tùy hứng… Giọng Khả ấm, trầm, khi lên cao thì tha thiết nồng nàn, pha chút ray rứt, bâng khuâng… Ông Trung ngồi nghe mà tâm hồn xao xuyến với những tang thương trong đời Khả…
       -Khả cùng tuổi với tôi. Nhưng cuộc đời  anh ta thì gian nan lắm! Trước đây, đang đi học thì bị đôn quân, anh cưới vợ sau khi đăng lính, trong một lần về phép, cô bạn học ngày nào đùa cợt vô tư cùng nhau, nay bỗng duyên dáng hẵn ra trong mắt anh, đôi nhủ hoa ngày ấy ép sát sau chiếc áo dài trắng muôt, nay nhô lên gợi cảm sau lán áo  xoa màu huyết, đôi cánh tay tròn lẵn với hai bàn tay mum múp đan vào nhau… nhất là đôi mắt nhìn anh vừa lạ lẫm vừa mến trìu ! Anh biết những ngày tháng trong quân ngũ đã giúp anh trưởng thành. Những ngày chủ nhật ở quân trường, lang thang cùng các bạn ở  Nha Trang, sau những tảng đá, những vùng cát trắng mịn ở Đồng Đế… đã biến anh thành đàn ông…
      Anh đã cùng cô bạn học cho nhau hết những nồng nàn rạo rực và hoan lạc… và rồi đám cưới vội vã đơn sơ diển ra, như bao đám cưới trong thời chiến.
       Năm 75, vào những ngày giao tranh cuối cùng, cả nhà anh chết khi cùng nhau chen chúc trong hầm vì một trái pháo, vợ anh sống sót bởi ở cùng bên ngoại, lúc này cô ấy đang mang thai. Anh trở về, trơ trọi với nỗi lòng xót xa tuyệt vọng, bàng hoàng, không muốn tin đó là sự thật! Khi nỗi đau tạm lắng xuống, anh tự an ủi mình là từ nay thoát được cảnh lính tráng xa nhà, luôn cận kề cái chết.
       Anh về ở với vợ bên nhà ngoại, chưa bao ngày thì được gọi đi trình diện học tập. Chỉ cấp bậc Trung sĩ mà anh cải tạo gần hai năm tận Tuy Hòa. Thời gian này chị vợ sinh một cháu trai, nỗi mừng chưa nguôi thì đứa con chết khi tròn tuổi vì bị sốt xuất huyết. Nghe tin, anh khóc lóc vật vã, ý tưởng quyên sinh chập chờn trong đầu anh nhưng rồi anh nghỉ đến người vợ, cũng đang đau khổ, cô đơn nơi quê nhà…
       Dường như định mệnh muốn anh phải sống đễ cợt đùà thêm cho trọn trò nghiệt ngã ! Một buổi sáng anh được nghỉ đi lao động, đang nằm trên chiếc sạp nứa, được gọi lên Ban Quản Giáo, họ cho biết đã mãn hạn học tập, trả về địa phương. Anh mừng rỡ, hét lên như một gã điên.
       Khả trở về. Hạnh phúc bên người vợ chưa bao lâu thì chị ấy nhuốm bệnh, da mặt ngày càng tái xanh, mệt mỏi… , những lần khám bệnh ở trạm xá với những viên thuốc nam không giúp gì cho chị… Cuối cùng, chị bỏ anh ra đi sau hai ngày đau đớn vật vã, những hạch bằng những viên bi mọc quanh cổ chị, những lời cuối cùng chỉ là những tiếng ú ớ không rõ ràng, chỉ cái bóp tay anh là có ý nghĩa! Chị mất vì chứng ung thư đường huyết!
       Anh như tê liệt hết cảm xúc, ngồi bên mộ vợ như một tấm bia bất động mấy ngày…
       Đám tang xong, anh đau liệt gần một tháng. Khi trở dậy thì đôi mắt mờ dần rồi mù hẳn!
      Anh xem, bấy nhiêu khốn khổ đổ lên một con người, tai ương nảy chưa nguôi thì họa khác ập đến, dồn dập…, nếu là tôi, chắc tôi không sống nổi!
      Không biết làm gì mưu sinh trong những ngày tháng sắp tới với đôi mắt mù lòa, cũng không còn gì níu kéo nơi quê hương đắng xót…, Khả đi xin ăn nơi này qua nơi khác với cây đàn Guitar, nó là kỷ vật còn lại của thời trai tráng vô tư… rồi trôi dạt tận Sài gòn.
      Khổ đau đến với anh ấy quá nhiều, nhiều đến độ anh trở nên trầm tư, u uất… Nhiều lúc tôi thở dài, tỏ ra xót xa cho những gì mà anh từng phải gánh chịu, anh chỉ nói một câu, trong tiếng thở dài:
      -Mọi sự theo duyên mà đến, mọi sự theo duyên mà đi…
      Bốn năm trước, một người phụ nữ, ngồi nghe anh hát suốt ngày với đứa bé gái. Tối đến, khi anh quờ quạng chiếc gậy đi về hàng hiên một ngôi nhà lớn mà lâu nay Khả nương nhờ, chị theo anh rồi dịu dàng trải cho anh tấm chiếu. Những lời đổi trao ít ỏi cho anh biết chị cũng thất cơ trở thành vô gia cư…
      Chị trải một chiếc chiếu khác bên cạnh anh, nằm với cháu bé. Không có gì đáng để mất mát mà đề phòng… anh ngủ đến sáng. Tiếng khóc nức nở của cháu bé làm anh thức dậy, người phụ nữ không còn, chỉ có cháu bé và một túi xách! Mắt không thấy nên anh không biết làm gì hơn là vỗ về cháu, luôn miệng nói; “Mẹ sắp về con ạ, mẹ đi mua đồ ăn sáng cho con thôi mà…”
      Bà bán xôi đem xôi đến cho anh như mọi sáng, nghe chuyện, bà gói cho cháu một gói, nói với anh với giọng nghi ngại:
      -Kiểu này là đem con bỏ chợ rồi, coi trong túi xách là biết liền.
      Một vài người tò mò ghé lại. Chiếc túi khá đẹp. Hai bộ áo quần nguyên vẹn với một chiếc đầm màu trắng tinh, vài cái áo cũ… Bên một ngăn kéo, bà bán xôi lôi ra một cái ví nhỏ, hai tấm hình, một chụp toàn thân cháu, vào lúc chừng bốn tuổi với chiếc đầm, một tấm chụp người đàn bà với người đàn ông, cả hai còn rất trẻ, tay bồng cháu bé đứng trước một căn nhà lá, sau lưng là một con kênh um tùm chuối và cây mỳ. Hai trăm năm chục ngàn kèm theo, ngoài ra không có gì nữa!
       -Chắc là anh ấy phải nhận cháu bé?
       -Anh nhận và xem đó là một diễm phúc trời ban… Hai cha con trở thành hành khách quen thuộc trên các tuyến xe buýt: Bến thành, Gò Vấp, Bình Triệu, Tân Bình… Đôi mắt mờ đục của anh và đôi mắt tròn ngơ ngác của cháu làm xúc động nhiều tấm lòng…
      Hai năm sau, nghĩ đến tương lai cháu bé, muốn cho cháu được đi học, anh đến phường này xin làm khai sinh cho cháu. Hôm đó, vợ chồng tôi cũng có mặt để lo thủ tục nhận hưu tại địa phương cho nhà tôi. Nhân viên hộ tịch chỉ chấp nhận làm khai sinh khi có hộ khẩu hoặc ít ra là tạm trú, mà tạm trú thì phải có địa chỉ… Đôi mắt của bé gái và vẽ mặt thất vọng của Khả làm nhà tôi không thể làm ngơ. Cô ấy quyết định bảo lãnh hai cha con.
      Chuyện đã mấy năm nay rồi, giờ anh ấy đang về ngoài Trung làm giỗ cho gia đình và vợ con…
      Chiếc đồng hồ cổ lỗ trên tường thong thả buông tiếng. Đêm đã khuya… Trong căn phòng im ắng, ngập tràn niềm thương cảm hoang mang, trong lòng hai người đàn ông dấy lên niềm xao xuyến băn khoăn cho thân phận con người, giữa cõi đời mong manh…
                                             oOo.
      Cậu Quý, con trai út, là niềm vui của gia đình, là hạnh phúc của bố mẹ vợ ông Trung. Trong gia đình bốn gái một trai. Ba người con khác đều yên ấm ở nước ngoài. Từ nhỏ, cậu hiển lành chăm chỉ, thích thẩn thơ trong vườn chè, đi câu cá… Nhưng từ ngày vào Sài-gòn học Đại học, ban đầu còn ở nhà chị, sau dọn vào Ký túc xá, rồi nghe đâu mướn phòng riêng để ờ cùng ai đó… Những năm về sau thì biệt tăm không ai biết cậu ở đâu!
       Cả gia đình, nhất là hai ông bà già, sống trong lo âu và tuyệt vọng. Ông Trung tìm khắp các khu nhà trọ vẫn không có chút tin tức gì…
       Mãi nhiều năm sau, một hôm, cậu đột ngột trở về làm ông bà mừng đến ngạt thở! Cũng ít nói, nhưng ngày xưa thì vui vẻ hồn nhiên, nay trong cái im lìm như chất chứa đều gì đắng cay, ray rứt.
       Bà mẹ có gợi ý với cậu lập gia đình, sau khi cậu về nhà độ một năm, nhưng cậu lắc đầu. Thấy mẹ buồn rầu, cậu nói nho nhỏ:
       - Con không làm chồng được mẹ ạ !
       Từ đó đến nay, bà không hề nhắc lại lần nào nhưng trong lòng, bà mong muốn một đứa cháu nội biết là bao!
       Hai ngày bận rộn với việc thu xếp đồ đạc, hôm nay, bà Trung đi thăm mấy người bạn cũ. Ông Trung  vào phòng của cậu em xem qua, tiện thể sắp xếp lại để có chỗ đưa số sách của ông vào. Kệ sách của cậu kê kín môt khoảng tường, phần nhiều là sách giáo khoa của những năm học trung học, xếp ngay ngắn ở những ngăn dưới. nơi ngăn gần bản, ông Trung ngạc nhiên nhìn những cuốn sách viết về Phật Giáo, phần nhiều còn mới, chứng tỏ mua từ sau khi cậu trở về.
        Cuốn kinh Bát Nhã với khổ nhỏ màu vàng, giấy láng thật đep, xuất bản ở Ấn quán Trúc Lâm, Paris, Chữ Việt và chữ Phạn, nằm trên bàn. Ông Trung lật xem, trang trong có hàng chữ ghi bằng bút bi:
      “ Con ạ, Duyên- Nghiệp trùng trùng, chớ băn khoăn. Quá khứ thì đã qua… đừng vọng tưởng sinh phiền lụy. Con và vợ, con của con, chưa đủ duyên nên ly tán, khi đủ duyên ắt sẽ hợp. Nay con về phụng dưỡng cha mẹ là việc nên làm…”
       Ở dưới có hai chữ: “Giác Viên.”
       Cuốn kinh sách và dòng chữ ghi như những lời khuyên dạy, làm dậy lên trong ông sự tò mò, ngạc nhiên.
       Trong một ngăn khác, gồm nhiều xấp giấy rời, có cuốn sổ bằng giấy thường, đã vàng ố, ông Trung lật xem, đó là cuốn nhật ký. Xem ngày tháng, ông thấy được ghi vào thời gian cậu ấy còn học Đại Học…
                                                         oOo 
        Ông Trung miệt mài suốt buổi với cuốn nhật ký. Khi vợ ông vào thì đã quá trưa. Ông đứng dậy dụi mắt…, trên tay cầm mấy tấm ảnh đã cũ. Ông nói với bà Trung, sắc mặt nghiêm nghị:
         -Em ạ, thời gian chúng ta không biết gì về cậu ấy có thể nói gọn lại như thế này: Khoảng gần cuối năm thứ tư thì cậu yêu rồi có thai với một sinh viên. Hai người về sống ở Tây Ninh. Cả hai bên đều không nói với cha mẹ, gom hết những gì có thể bán được, họ làm một cái lều bằng lá, rồi đứa con gái chào đời… Hằng ngày, cậu ấy chạy xe ôm kiếm  sống. Họ đã sống cùng nhau trong hạnh phúc…
          Chừng bốn năm sau, cậu ấy bị một cơn bệnh nặng, chuẩn đoán viêm ruột thừa, bệnh viện phẩu thuât vụng về, bị nhiểm trùng, phải phẩu thuật nhiều lần… Sau khi hồi phục một thời gian… Cậu đau khổ vì thấy mình không thể làm công việc của người chồng, cậu ấy không còn là một người đàn ông theo đúng nghĩa của nó!
          Một hôm chạy xe ôm trở về, cậu không thấy vợ và đứa con gái ba tuổi. Nơi tờ giấy lịch dặt trên bàn, nghệch ngoạc mấy dòng ngắn ngủi, cô ấy nói là về với cha mẹ ở Kom Tum.
        Cậu buồn và thất vọng, vào một ngôi chùa đâu đó gần biên giới Campuchia… Ở đó cho đến ngày về lại nhà. Cậu luôn nhớ con và ước ao được hôn nó một lần, đêm  trước khi bị tai biến, cậu mơ thấy con, bàng hoàng ngồi dậy khóc rồi viết suốt … nước mắt ướt cả cuốn nhật ký! Em xem mấy tấm hình này, có tấm anh thấy quen lắm mà không nhớ đã nhìn được ở đâu …
        Bà cầm mấy tấm hình chăm chú… lát sau mới lắp bắp:
        -Giống tấm hình... chỗ con gái… anh Khả… anh ạ. Đúng lả bé ấy rồi! Ôi em ơi, ôi cháu tôi! Chị tìm được con cho em đây Quý ơi!
        Ông Trung cũng vừa nhận ra, đưa tay lên môi ra hiệu cho bà đừng khóc lớn. Trong hình cậu em gầy và đen… nhưng cô bé thì rất dễ thương, người mẹ cũng đẹp dù ăn mặc đơn sơ.
        -Anh gọi điện cho anh Khả đem cháu lên Di Linh đi, giờ này anh ấy chắc vào lại rồi, em hồi hộp quá. Ôi cháu gái tôi! Cha mẹ ơi, con ở bên cháu mấy năm nay mà nào biết đó là máu mủ của mình !
        -Anh sẽ về đón, xin chuyển trường luôn. Vấn đề bây giờ là làm sao báo với ông bà ngoại mà không bị sốc. Rất nguy hiểm đó em ạ!
        Bà Trung ôm lấy chồng khóc rấm rức:
        -Ôi cháu ơi, cô có biết đâu cơ sự này!
        Ông Trung cũng nghẹn ngào:
        -Giá mà trước khi mất, cậu ấy ghé thăm chúng ta một lần thì đâu nên nỗi…
       Im lặng một lát, ông buồn rầu nhìn ra ngoài vườn qua khung cửa sổ, lẩm bẫm:
       -Ôi, duyên - nghiệp… Sao quá muộn màng!
                                                            Sài Gòn, Tháng V.2014.

                                                        Mùa Phật Đản, Phật lịch 2558
                                                            Trạch An-Trần Hữu Hội

READ MORE - DUYÊN - NGHIỆP - truyện ngắn Trạch An-Trần Hữu Hội

NHẠC SĨ VÕ CÔNG DIÊN - Đinh Thanh Hải

(Từ Facebook của Đinh Thanh Hải)


Sáng thứ 7 điện thoại của tôi reo lên, đó là người anh Nguyễn Ngọc Trường cùng quê Quảng Trị gọi, anh nói: Chú mi khỏe không? Tối ni gặp chắc tí nghe ... Eng tổ chức buổi tiệc nhẹ ở nhà, cho eng tam Quảng Trị gặp chắc một bữa. 


Anh em Quảng Trị tại nhà anh Nguyễn Ngọc Trường


Hôm đó ngày 22/03/2013, anh em gặp nhau tại nhà anh Trường rất vui, tôi được gặp rất nhiều anh em đồng hương quê Quảng Trị. Anh em vui cùng nâng chén rượu, và nói đôi chuyện quê miềng răng mà thương mà nhớ, rồi những câu chuyện thổ ngữ - nói lái, nghe mà cười đau cả bụng. Đêm càng dần buông thì cái men tình men rượu ấy lại thấm đượm. Nói thật tôi thích nhất là những bữa tiệc như thế này, ngồi mãi mà chẳng thể nào say, vui quá đi mà. Từ hát, sang hò, rồi ngâm thơ. Anh em ngâm đi ngâm lại bốn câu thơ trong bài : "Lời gọi bên sông" (còn được biết đến với tên gọi Đò xuôi Thạch Hãn) của Lê Bá Dương, bài thơ ra đời năm 1987: " Đò lên Thạch Hãn xin chèo nhẹ / Đáy sông còn đó bạn tôi nằm. / Tan chợ chiều xuôi đò có vội / Xin, xin đừng khuấy đục dòng trong. " Sau này nhà văn Đỗ Kim Cuông khuyên anh nên sửa lại - bài thơ lại được sửa lại hoàn chỉnh đó là: "Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ / Đáy sông còn đó bạn tôi nằm / Hóa tuổi hai mươi thành sông nước / Vỗ yên bờ bãi mãi ngàn năm "

Trong khi anh em đọc thơ, đàn hát, thì trong bàn tiệc có một người đang cầm cây viết hí hoáy viết, như thể không cho những dòng cảm xúc kia mất đi ... đó là nhạc sĩ Võ Công Diên, một người đã có nhiều tác phẩm được giải lớn, trong đó có bài: Bài Ca Yêu Thương - Bài hát anh viết về những cô gái thanh niên xung phong tại Ngã Ba Đồng Lộc: " Chiều nay về thăm Đồng Lộc nghe chuyện kể mười cô gái thanh niên xung phong / Các chị nằm đây dưới lòng đất mẹ, tuổi xuân này dâng tặng quê hương / Đồng Lộc ơi, thịt da em quyện vào sông núi / Cho nước sông La không bao giờ cạn, cho tiếng quê mình nghĩa nặng tình sâu / Đồng Lộc ơi mảnh đất quê hương sâu lắng những ân tình / Đồng Lộc ơi, chiều quê hương dạt dào trong nắng / Nghe tiếng ai ca đôi câu ví dặm / Nghe giọng ai hò rằng giận mà thương / Đồng Lộc ơi, cô gái quê ta hóa thành thiên hùng ca "

Sau khi vừa ghi vội xong những dòng cảm xúc tuôn trào, anh Võ Công Diên xin đàn và hát ngay lúc đó, bài hát về quê hương Quảng Trị. Anh dựa theo cái không khí ấm áp tình đồng hương, cùng những câu thơ thật hay của nhà thơ Lê Bá Dương. Bài hát với những ca từ mộc mạc, điệu nhạc trữ tình nhẹ nhàng mà sâu lắng ... Đúng là người con Quảng Trị thật đa tài, ngồi ở đâu cũng ra thơ, thành nhạc. Anh chia sẻ: Mình sẽ hoàn thiện bài hát này, chắc 10 ngày nữa mình sẽ công bố. Sau đó không lâu,  bài hát "Ta về tắm lại một dòng sông" đã ra đời.


Nhạc sĩ Võ Công Diên với công việc sáng tác nhạc của mình


Sau buổi gặp gỡ tối hôm đó, tôi thường gặp Nhạc sĩ Võ Công Diên cùng Nhà báo Đăng Bình, qua Câu lạc bộ Gia Đình Doanh Nhân & Pháp Luật. Những lần gặp, tôi lại hiểu thêm một tý về anh, anh là người hiền hậu, tính tình chất phác, trên môi luôn nở nụ cười. Anh thường có những lời chia sẻ thật hay, người nghe cảm thấy nhẹ nhàng, thoải mái ... Giọng nói hay từ ngữ nó êm ái như những ca từ trong nhạc của anh viết. Tôi lần tìm và nghe nhiều hơn những bài hát của anh về: con người, quê hương cùng đất nước. Mỗi nơi anh đến là một bản nhạc với âm điệu của chính nơi miền quê đó, nghe qua ta đoán ngay là miền nào ? Có hôm, vừa nghe xong bài "Em ở nơi đâu?" tôi như lặng đi, cảm xúc ùa về, mắt ta nhòe đi: "Đã mấy bữa ni bới tìm vẹt cuốc. Đất sâu bao nhiêu bọn anh không cần biết. Chỉ sợ em đau nên cuốc chùng tay ... " "Về với bọn anh tắm sông Ngàn Phố. Ăn bưởi Sơn Bằng, cắt cỏ chăn trâu ... Cúc ơi! Em ở nơi mô". Bài hát "Em ở nơi đâu?", dựa theo bài thơ của Nhà thơ Yến Thanh, mang đậm dòng nhạc dân ca xứ Nghệ. Qua sự thể hiện của NSND Thu Hiền, tôi được truyền bao nhiêu cảm xúc, mượt mà, sâu lắng. Bài hát ra đời sau năm 2008, nhân dịp Báo Công An TP. Hồ Chí Minh phát động cuộc thi sáng tác ca khúc viết về 10 cô gái hy sinh ở Ngả Ba Đồng Lộc, nhạc sĩ Võ Công Diên cùng các nhạc sĩ chuyên nghiệp khác đi một chuyến thực tế đến Hà Tĩnh. Bài "Em ở nơi đâu?" là nói về cô Cúc. Tiểu đội 4 của cô Cúc bị máy bay thả bom tấn, dội đúng hầm 10 cô đang ẩn nấp, chôn sống cả 10 cô. Khi tan bom, mọi người dồn về đào bới tìm. Sau hai tiếng thì tìm thấy 9 cô đã hy sinh, nhưng tìm hoài vẫn không thấy cô Cúc. " Tiểu đội đã xếp một hàng ngang / Cúc ơi! Em ở đâu không về tập hợp /Chín bạn đã quây quần đủ hết / Nhỏ, Xuân, Hà, Hường, Hợi, Rạng, Xuân, Xanh / A trưởng Võ Thị Tần điểm danh / Chỉ thiếu mình em / Chín bỏ làm mười răng được "

Dạo gần đây, anh cùng tôi tham gia Câu lạc bộ Gia Đình Doanh Nhân & Pháp Luật do Nhà báo Đăng Bình tổ chức. Những buổi sinh hoạt thật vui, với tiếng đàn của anh giúp bao nhiêu người cất tiếng hát, vút cao như một ca sĩ nghiệp dư. Bên cạnh đó, anh còn tổ chức dạy khiêu vũ cho những ai thích môn nghệ thuật này.


Góc nhỏ đơn sơ, bình dị, tràn ngập yêu thương


Là người con Quảng Trị, nên anh cũng có cái tính rất thật và thẳng, có gì nói đó chẳng ậm ờ, tốt thì khen mà xấu thì góp ý nhỏ nhẹ. Anh kể với mọi người: Khi tham gia trang mạng xã hội, có nhiều người hỏi anh có bao nhiêu bạn trên Facebook, anh không ngần ngại trả lời: " Tôi không rõ bao nhiêu, có lẽ vài trăm người. Họ trố mắt ngạc nhiên: Vài trăm, sao ít thế? Thông thường, các văn nghệ sĩ có nhiều người kết bạn lắm. Tôi nói: Thế là quá nhiều rồi đấy, nếu mỗi ngày thăm hỏi trò chuyện tâm sự với chỉ 5 người bạn trên Facebook thôi thì tôi phải mất khoảng hơn 5 tháng xoay vòng mới gặp lại người đầu tiên, ấy vậy mà có nhiều anh chị em có trên nghìn bạn bè, không hiểu các bạn ấy sắp xếp thời gian thế nào để thăm hỏi nhau nhỉ? Xin các bạn của tôi trên FB thông cảm cho tôi nêu lâu rồi không nhận được lời thăm hỏi chia sẽ của tôi và ngược lại nếu rất lâu rồi các bạn không ghé thăm tôi cũng xin đừng áy náy. Chúc các bạn có nhiều sức khỏe & nhiều nềm vui mà Facebook đã mang lại."

Quảng Trị, nơi miền quê hương chôn rau cắt rốn, nhạc sĩ đã lớn lên bên dòng sông Thạch Hãn, từng ngụp lặn với đám trẻ nghèo ... Mỗi lần đứng bên sông nhìn những con đò xuôi ngược, đưa ước mơ tuổi thơ vào đó, muốn được cùng nó đi xa, phiêu du vào chốn đời phiêu bạt, rong chơi ... Và hôm nay, ước mơ đó đã thành hiện thực, đứa trẻ ngày nào đã rời xa miền quê ấy. Từ phương nam, người nhạc sĩ lại nhớ về nơi quê mình ngoài ấy, gửi gắm hồn mình qua ca khúc "Quê hương tuổi thơ" : "Tìm lại tuổi thơ đi qua. Nơi tôi sinh ra bên dòng sông Thạch Hãn. Tìm bóng con đò chiều trôi êm ả, dong buồm về Cửa Việt chiều nay. Tôi tìm về tìm lại tuổi thơ tôi, đây thôn Lam bên dòng sông Vĩnh Định. Nhớ mỗi chiều về em thương ra sông gánh nước. Dưới cội ngô đồng một dáng nón che nghiêng. Tôi tìm về tìm lại tuổi thơ tôi, đây Gio Linh mùa gió Lào cháy bỏng. Nhớ đêm Gia Môn chia tay người ở lại, để bây giờ tiếc hoài tuổi thơ qua ... " Bài hát như thay lời của những người con quê xa xứ, ôi quê mình canh cánh mãi bên lòng. Bài hát lại đưa ta đi qua những vùng miền, địa danh nỗi tiếng, nơi đó hình như có một chút tình thuở còn thơ :" Tìm lại tuổi thơ đi qua, La Vang nơi đây Thánh đường chiều buồn. Ta nhớ năm nào dìu em sánh bước, con nguyện cầu Đức mẹ hiển linh ... "

Nhạc sĩ Võ Công Diên quê ở xã Hải Vĩnh, huyện Hải Lăng. Anh sinh ngày 9 tháng 10 năm 1958. Anh là cựu học sinh trường Nguyễn Hoàng, một trường nổi tiếng thời xưa. Anh tốt nghiệp trường Âm Nhạc Huế. Năm 1979 anh rời xa quê đi vào nam lập nghiệp. Hiện nay ang đang mở lớp dạy nhạc Đô Rê Mi tại địa chỉ : 1/11 đường số 79, Khu phố 1, Tân Quy, Quận 7. Nhạc sĩ Võ Công Diên là hội viên của Hội Âm nhạc Thành phố Hồ Chí Minh.


Những bài hát của anh: Quê hương tuổi thơ (bài hát về quê Quảng Trị), Nhớ mãi Sài Gòn (thơ Mặc Giang), Bến sông (thơ Mai Khoa), Về Tiền Giang, Người đừng về (lời Thi Hạnh), Ta mãi bên nhau, Mùa đông nhớ Huế, Ta về tắm lại dòng sông quê, Cánh Cò (viết tặng những em bé đánh giày, bán vé số, bơ vơ không cha mẹ, phải vào đời sớm mà tôi đã gặp trong bước đường lập nghiệp của mưu sinh ở phương trời nam) ... cùng rất nhiều bài hát mà Nhạc sĩ Võ Công Diên viết về cuộc sống, đất nước, làng quê, tuổi trẻ, tình yêu ...

Hôm rồi, tôi lại biết thêm về một quyết định của Nhạc sĩ Võ Công Diên, anh đã ký giấy hiến xác cho nghiên cứu khoa học. Một quyết định mà ai nghe đều quý trọng.

Qua đây, tôi xin chúc anh cùng gia đình luôn dồi dào sức khỏe, cuộc sống tràn ngập niềm vui và hạnh phúc!

Sài Gòn 05-08-2014
Đinh Thanh Hải
READ MORE - NHẠC SĨ VÕ CÔNG DIÊN - Đinh Thanh Hải

ĐỌC “CŨNG ĐÀNH…” THƠ VĨNH THUYÊN - Châu Thạch

                                               

CŨNG ĐÀNH...

Buồn rớt lưng chừng
Biển khóc
Con sóng giật mình trở giấc
Chiêm bao
Dã Tràng ơi nếu đừng
Se cát
Thì sóng đâu đến nỗi
Bạc đầu 

Chỉ một câu thề chia hai
Một nửa
Người bỏ nơi này một nửa
Ra đi
Còn nửa của tôi thành dòng
Chảy ngược
Đêm tựa lưng trời chở áng
Mây trôi

Giọt nước mắt tôi chừng nào
Hoá đá
Khắc trọn tên em hai tiếng
Cũng đành
Cho đến ngày kia bình mình
Thức dậy
Không có tôi ai... đứng đợi
Dỗ dành
                            Vĩnh Thuyên


Lời bình:  Châu Thạch

Tác giả Châu Thạch
Chủ đề và đại ý bài thơ không liên quan gì đến biển nhưng vế một của bài thơ lại hoàn toàn đề cập đến biển. Biển trong “Cũng Đành…”  bao la nhưng yếu duối, mơ màng nhưng bi luỵ, vì nỗi khắc khoải  khiến cho con sóng của nó phải bạc đầu, bởi nó se lòng khi phải làm những việc ngoài ý muốn của mình, như việc phá nát bao lâu đài của Dã Tràng xe cát. Biển ở đây “buồn rớt lưng chừng” nghĩa là buồn chơi vơi. “Con sóng giật mình trở giấc.” không phải là con sóng đang say ngủ đâu mà ngược lại nó đang triền miên thao thức suy tư đến nổi phải bạc đầu. Rõ ràng Vĩnh Thuyên đang tả biển nhưng thật ra chủ đích Vĩnh Thuyên không tả biển. Vĩnh Thuyên lấy biển để nói về tâm hồn mình, một tâm hồn bao la và mênh mang như biển, có thể làm dậy lên muôn sóng thét gào, nhưng “cũng đành…” hứng chịu bao nghịch cảnh trên đời để phải buồn, để phải khóc, để phải than  cho bao điều nghịch lý  xảy ra. Những câu thơ vô cùng hay khi Vĩnh Thuyên nhân cách biển, khiến sóng như một thân vị có tóc trên đầu bạc đi vì tháng ngày trăn trở, ưu tư:
         
                   Dã Tràng ơi nếu đừng
                   Se cát
                   Thì sóng đâu đến nỗi
                   Bạc đầu

 Nhiều câu thơ đã nói đến sóng bạc đầu nhưng không có câu thơ nào nói sóng bạc đầu bởi vì con Dã Tràng xe cát. Quả Vĩnh Thuyên đã tìm được trong ngàn năm sóng vỗ tiếng lòng riêng tư của biển đồng điệu với tiếng lòng riêng tư của mình, khiến cho tiếng thầm thì trong lòng thi sĩ hoá thân trong tiếng thầm thì bao la của biển, và những cơn sóng ào ạt của trùng dương lại mang cả nỗi lòng cho con Dã Tràng nhỏ nhoi ngày ngày xe cát.

Qua vế thơ thứ hai tác giả quên ngay biển vì thật ra chủ đề bài thơ đâu phải là biển mà chủ đề là “Cũng Đành…” ôm một nửa đau thương để đi ngược cuộc đời:

                   Người bỏ nơi nầy một nửa
                   Ra đi
                   Còn nửa của tôi thành dòng
                   Chảy ngược

“Một nửa” đã là hiện thân của sự mất mát rồi, ở đây một nửa đã thành “dòng chảy ngược” thể hiện cho nỗi khó khăn nhọc nhằn trong tình yêu hay trong cuộc sống. Trong nỗi khó khăn đó “một nửa” ở lại chờ “một nửa” ra đi với tâm hồn như cả vùng trời đau đáu chờ đám mây trôi trở lại: “Đêm tựa lưng trời chờ áng mây trôi”. Câu thơ rất tuyệt, đã làm cho hình tượng người đợi chờ cao lên, lớn ra, bàng bạc lung linh giũa nền trời bao la rộng lớn, khiến cho mối tình người hòa điệu với thiên nhiên, ẩn chứa trong câu thơ ngắn gọn một không gian vô biên giới của tình.

Qua vế thơ thứ ba tác giả khóc thật. Một tâm hồn đem mình so với biển, một tâm hồn khoán đạt đến nỗi chờ em như “tựa lưng trời chờ áng mây trôi” bây giờ “Cũng đành…” nhỏ lệ. Tâm hồn đó nhỏ lệ đã là một sự rất bi thương, vậy mà chưa hết, còn muốn lệ mình biến ra thành đá để dùng đá ấy khắc trọn tên em. Vậy thì có lẽ đá ấy cũng khóc cho Vĩnh Thuyên, một người thơ yêu đến tột cũng và hoá thân lãng mạng mình vào trong sự bao la như biển, trong bát ngát như lưng trời và trong sự khô khan như của đá:

                 Giọt nước mắt tôi chừng nào
                 Hóa đá
                 Khắc trọn tên em hai tiếng
                 Cũng đành…

“Cũng đành” là sự cam chịu, nhịn nhục, bằng lòng trong gượng ép. Tác giả ao ước một điều không có thật, tưởng tượng một điều rất vu vơ, là điều mà một ngày giọt nước mắt của mình hoá đá để khắc tên em. Thật ra vì tấm lòng yêu tha thiết  mà tác giả tưởng tượng ra điều không tưởng ấy nhưng đó chính là hồn bướm mơ những giấc mơ ngược lại giấc mơ tiên, làm tâm hồn thăng hoa trong nỗi đau thương của sự rẽ chia phân cách. Vĩnh Thuyên đã tỏ ra cảm khoái trong đau thương: “Giọt nước mắt tôi chừng nào hoá đá” là đau thương, còn “Khắc trọn tên em hai tiếng cũng đành” là cảm khoái. Hai trạng thái đó thành bên đục bên trong của “dòng  chảy ngược” trôi trong tâm hồn thi sĩ khiến cho câu thơ trở nên buồn thê thiết, cuồn si đến dại khờ, đam mê đến cùng tận. Đó là linh hồn của những con thiêu thân đáng yêu lao mình vào ánh sáng, thà chết còn hơn bay lòng vòng trong bóng tối một đời.

                  Cho đến ngày kia bình minh
                  Thức dậy
                  Không có tôi ai…đứng đợi
                  Dỗ dành

Bài thơ thật dễ thương, thật nhu mì ở vế chót. Bình minh sẽ thức dậy trong đời hay không chưa biết nhưng sự chờ đợi của nhà thơ là một ý tưởng ngọt ngào, thân yêu và đằm thắm. Riêng tôi, tôi nguyện cầu cho bình minh đừng thức dậy, vì bình minh thức dậy thì Vinh Thuyên đâu còn nữa u uẩn để phát tiết thành thơ cho thế gian nầy thưởng thức.


                                                     Châu Thạch 
READ MORE - ĐỌC “CŨNG ĐÀNH…” THƠ VĨNH THUYÊN - Châu Thạch

LỜI TÌNH MÙA THU - thơ Tuyền Linh

Tác giả Tuyền Linh


Tưởng chừng như đã trôi xa
Tưởng chừng như đã nhạt nhòa khói sương
Tưởng chừng giọt nắng vô thường
Đã tan loãng mất trong hương thu về

Ngờ đâu bãi cát cồn khe
Lại còn râm rĩ lời ve tự tình
Trong như giọt nắng thủy tinh
Buồn như gió hú đầu ghềnh cuối sông

Xa nghe mà rối tơ lòng
Bỗng thương, bỗng nhớ, bỗng mong, bỗng chờ…
Bỗng thu vàng rụng bơ vơ
Bỗng hồn lãng đãng vật vờ sắc thu

Con tim vùi chốn thâm u
Bỗng dưng thức giấc ngậm ngùi xót xa
Em ơi, muôn dặm cách xa
Làm sao thuyền mộng về qua bến tình ! ?

Tuyền Linh


READ MORE - LỜI TÌNH MÙA THU - thơ Tuyền Linh