LỜI DÂNG
(Tiếp theo kỳ trước)
Tự
tri là, bằng trí tuệ nội quán, nhận biết trọn vẹn
mọi cảm giác, tư tưởng, ý muốn, nhận thức phân biệt
v. v…đang xảy ra trong tâm trí. Đây là sự nhận biết
(kiến chiếu) một cách tự nhiên, không phê phán, không
lấy - bỏ (thủ - xả), không dụng công. Có năng lực
kiến chiếu này thì tâm trí sẽ tĩnh lặng (tỉnh thức)
và thấy rõ bản chất của bản ngã (cái “tôi”). Bản
ngã sẽ được chuyển hoá thành trạng thái tâm vô ngã -
tức là tâm thái hoà bình, từ bi đích thực, mang năng
lượng tích cực có lợi cho toàn “mạng lưới vật chất
và tâm linh” của vũ trụ.
Khi
ngồi định tâm mà vẫn nhớ nghĩ đủ chuyện (tức nói
năng bên trong) thì giống như khi ngồi một mình mà nói
đủ điều. Đó là tình trạng bất bình thường của tâm
trí, của bộ não và hệ thần kinh.
“Tỉnh
thức” là “có mặt” trong giây phút hiện tại với
những gì đang xảy ra. “Có mặt” tức là tâm trí không
còn vọng tưởng lang thang.
(Trang
126)
Người
biết yêu điều tốt ghét điều xấu là người biết
phục thiện; người biết phục thiện thì dễ tiếp
thu đạo lý giác ngộ; người biết tiếp thu đạo lý
giác ngộ thì dễ thực hành tự tri; người biết thực
hành tự tri thì dễ thực chứng chân lý tuyệt đối,
siêu vượt khái niệm - tướng trạng.
Khí
kẻ ác tấn công ta, ta sử dụng trí tuệ và lòng dũng
cảm để đối phó với chúng; làm như thế thì có lợi
hơn là sử dụng lòng căm thù.
Vô
ngã là tâm thái tịch tri, tịch chiếu, thường tịch
quang. Vô ngã là Chân ngã.
Đừng
coi thường việc chữa trị các bệnh tinh thần, vì nếu
thế, văn minh vật chất và sự hưng thịnh kinh tế chỉ
như sức lực dồi dào của một gã khùng hung hãn, sẽ
rất nguy hiểm cho nhân loại.
(Trang
127)
--------------
Những
người yếu kém văn hoá (có thể có học vị cao, tri thức
dày) thường coi khinh dân quê, coi khinh những nghề lao
động vất vả, thu nhập thấp. Tâm hồn họ bị xơ hoá,
vô cảm, vong ân.
Cái
nhìn khách quan không thể đánh giá được nhân cách minh
triết; chỉ họ tự biết. Nhân cách minh triết tối
cao chính là nhân cách tự - do - tinh - thần. Đó là giá
trị cao nhất.
Tâm
bất bình thường thì não bất bình thường. Tâm não bất
bình thường tác động bất bình thường đến sự vật
và ảnh hưởng xấu đến nhận thức của ta, đến cuộc
sống của ta (kể cả hoàn cảnh) .
Được
lên thiên đường bởi niềm vui: niềm vui mang tính chất
nhân từ. Bị xuống địa ngục cũng bởi “niềm vui”:
niềm vui mang tính chất gian ác.
(Trang
128)
Không
quan tâm đến sự sống sau khi thể xác chết là quá thờ
ơ với tương lai.
Trong
ta có “tấm gương” “nghe và thấy” được tư tưởng,
cảm giác, ý muốn... Tĩnh tâm một thời gian thì tấm
gương này sẽ lộ rõ. Nó càng sáng, ta càng dễ thấy cái
“tôi” và cái “tôi” dễ dàng được chuyển hoá
thành “vô ngã”.
Mọi
tài năng đều có giá trị về mặt công cụ, đều có
thể góp phần làm cho cuộc đời tốt đẹp hơn. Nhưng
cái năng lực quý giá nhất làm cho con người giữ vững
giá trị làm người, đó là sự tự tri tự chủ. Thiếu
cái năng lực này, các tài năng khác có thể biến con
người thành ác quỷ, dã thú, kẻ đê tiện.
Tôn
giáo có ý nghĩa lớn về đạo đức, về cảm hứng, nhu
cầu cải tạo tâm tính, nếu tôn giáo giàu từ bi bác ái
.
(Trang
129)
Gọi
là “Thiền” hay từ nào khác cũng được, điều quan
trọng là cái nội hàm “tự tri - tỉnh thức - vô
ngã”.
Thiền
học không nên chỉ dạy hạn chế ở một vài ngành
đại học, mà nên phổ cập ở mọi cấp học để có
nền tảng vững chắc trong giáo dục - đào tạo nhân
cách.
Cái
“tôi” làm cho tâm hồn nặng trĩu vì uy lực, còng xuống
vì nô lệ, đen tối vì tự ti, tự phụ, tự ái…
Thiền
định tự tri càng cao thì càng minh mẫn hơn, chủ động
hơn với cuộc sống, với công việc; năng lượng phiền
não được chuyển hoá thành năng lượng an lạc, thiện
ích .
(Trang
130)
Niệm
(nhớ - nghĩ) luôn xuất hiện trong tâm. Chúng là ngôn
từ (tiếng nói bên trong) và có hình tướng (sóng
tâm thức). Trong thiền định (tự tri), ai thấy rõ niệm
sinh diệt liên tục, thấy rõ chỗ niệm xuất hiện và
chấm dứt (tức là khoảng trống giữa hai niệm) thì sẽ
nhận ra (ngộ) tâm vô niệm, “vô ngôn”. Đó là tâm thể
“một niệm vô ngôn" như vầng trăng toả sáng.
(“Niệm” trong “niệm vô ngôn" có huyền nghĩa khác
hẳn với “niệm” trong “vọng niệm”. Phải ngộ mới
thấy, mới biết). Vô ngôn đó khi đã “an định”, sẽ
soi sáng muôn lời (tức là soi sáng trí phân biệt
tương đối), sẽ là tri giác tự do tự tại, thoát tình
trạng vọng động vô minh. Đó là “tánh sáng” bất
sinh bất diệt.
Phải
biết “ghét” bệnh phong, nhưng đừng ghét người
mang bệnh phong; cũng vậy, phải biết ghét thói xấu nhưng
đừng ghét người đang có thói xấu. Sự xấu ác là bệnh
tinh thần .
(Trang
131)
--------------
Nếu
chưa quán tâm (tự tri) để thấy rõ tướng trạng như
huyễn của bản ngã thì chưa biết “đọc kinh bằng
tâm”, chưa biết đọc công án Thiền.
Nhiệm
vụ quan trọng nhất của văn nghệ sĩ là giúp người
khác biết sống với hạnh phúc trong sáng - thứ hạnh
phúc mà người văn nghệ sĩ chân chính phải có, nhà văn
hoá chân chính phải có, con người biết tự tin - tự
trọng phải có.
Thỉnh
thoảng có được một vài phút sống với tâm vô ngôn
cũng có công đức và phước đức rất lớn.
Giới
hạnh là vấn đề khoa học, vấn đề nhân quả. Chí
hướng giác ngộ biết tôn trọng nhân quả, nhưng muốn
siêu vượt nhân quả, luân hồi.
Muốn
có hiệu qủa cao trong việc chống hối lộ - tham ô - bè
phái, một đại nạn của thế giới, thì tôn giáo phải
vào cuộc với giới luật rõ ràng về vấn đề này.
(Trang
132)
Thói
hối lộ sinh ra nhiều tội ác nghiêm trọng.
Thấy
- biết khác với hiểu. Nếu thấy - biết của tâm chưa
khế hợp với Bát Nhã Tâm Kinh thì chưa có Trí Bát Nhã.
Một
trong những phương cách giúp duy trì cảm hứng sống thiền
là tọa thiền mỗi ngày. Không nên bỏ trắng ngày nào cả
(vì lý do gì đó cũng nên duy trì vài phút).
Tâm
vô ngôn là sự tỉnh thức toàn diện của sự sống.
Khoác
lác, tự đại, tự ti, khiêm tốn đều không có lợi cho
Đạo .
Muốn
đi sâu vào kinh sách về Thiền, phải có năng lực đọc
- hiểu và đọc - thấy. Thiền định tự tri làm xuất
sinh năng lực đọc - thấy. Đó là cái thấy nội tại.
(Trang
133)
--------------
Khi
tâm hồn không có lý tưởng thánh thiện và minh triết
thì con người rất dễ bị cái xấu lôi cuốn, rất dễ
bị tha hóa biến chất.
Chưa
thật thấy chúng sinh là ân nhân của mình thì chưa có
phẩm chất Bồ tát, chưa tỉnh thức.
Tâm
Đại thừa là tâm khiêm hạ, hiểu rằng tội lỗi của
mình từ vô lượng kiếp đã ảnh hưởng xấu đến tất
cả chúng sinh.
Tâm
Đại thừa khởi phát từ sự nhận thức sâu sắc
rằng, tội lỗi của cá thể ảnh hưởng đến toàn thể,
qua thân khẩu ý.
(Trang
134)
Thể
xác thì tất nhiên có sở trụ, nhưng tinh thần thì cần
“hướng đến” vô sở trụ .
Làm
cho con người biết yêu quý nét đẹp tâm hồn mình, đó
là nhiệm vụ cao cả của văn hoá, của giáo dục, của
tôn giáo.
Thiền
định tự tri là sống tận nền tảng, tận cội nguồn
sự sống.
Giá
trị giác ngộ, giá trị Đại Thừa không nằm ở
hành vi, hình tướng bên ngoài, mà ở thực chất của
tâm. Nếu thật sự có giác ngộ, có tâm Đại thừa thì
dù sống ẩn dật vô danh vẫn có thiện ích lớn cho chúng
sinh, cho sự nghiệp giác ngộ chung.
Có
duyên lành với nền văn hoá giác ngộ là có diễm phúc
cực kỳ lớn lao.
Không
tôn trọng phương tiện thăng hoa tâm linh của người khác
thì chưa có tâm thái hòa bình, tỉnh thức .
(Trang
135)
(Còn tiếp)
Tuệ Thiền Lê Bá Bôn
Bà Rịa - Vũng Tàu
lebabon04@gmail.com
(Còn tiếp)
Tuệ Thiền Lê Bá Bôn
Bà Rịa - Vũng Tàu
lebabon04@gmail.com