Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Tuesday, November 15, 2011

NGƯỜI ĐÀN BÀ Ở CUỐI RÌA LÀNG - Truyện ngắn của MINH TỨ


Chiếc xe u oát chạy băng trên con đường mới mở rộng mờ mịt bụi. Gió Tây Nam thổi ào ạt qua bao núi đồi hung dữ bỗng dịu ở phía bờ sông bên này. Ông Lê ngồi ở ghế trước đang kể chuyện thời chiến tranh ông hoạt động ở vùng này bỗng ngoái lại hỏi tôi:

- Này nhà báo, cậu thấy buổi tiếp xúc cử tri hôm nay như thế nào ?

- Dạ, rất thú vị. Dân vùng này họ nói hay quá. Tôi sẽ lọc lại để đưa các ý kiến thẳng thắn của họ vào bài viết...

Nhớ lại buổi sáng nay ở hội trường uỷ ban xã, bà con cử tri nói rất thẳng. Họ nói: “Mấy ông làm chính sách ở tận đẩu tận đâu trên cao, chẳng ngó ngàng gì đến bầy tui. Bầy tui trải qua kháng chiến gian khổ không kể làm gì, giờ chỉ mong chộ mấy ông, để mấy ông nghe bầy tui nói cũng khó khăn lắm. Đầu kỳ bầu bán thấy mấy ông lỉnh kỉnh xe về gặp gỡ tiếp xúc, trúng xong cả nhiệm kỳ biến đi đâu mất tăm hơi...”.

Lại nữa, một cử tri nói như trút nỗi niềm tâm sự: “Hôm rồi nhớ đồng đội quá, tôi lên thành phố thăm thằng bạn cũ. Mới gặp hắn đã vô đề: Anh cần gì ? Chứng nhận thành tích hả ? Xong, rẹc rẹc. Nhậu chứ, làm ly đã. Đời sống ở quê cực lắm phải không ? thì ráng qua cái đận khó khăn chung. Tui nghe chưa hết, nghĩ không phải là bạn cũ, tui biến về ngay...”

- Nhưng đó là cậu mới nghe - Ông Lê cự lại - Tôi đi về với dân thường xuyên, nghe dân họ “chửi” quen rồi. Ý kiến họ gửi gắm, tôi có ghi chép cẩn thận, sau mỗi chuyến đi có báo cáo với cấp trên, với các ngành liên quan. Họ nghe rồi, chắc bận nhiều việc quên giải quyết. Thế là hết. Lần sau về gặp lại, dân họ lại “chửi” tụi tôi nói mà không làm, hứa với dân mà nuốt lời hứa. Biết làm sao được. Cậu thấy hôm nay tôi nghe, im lặng từ đầu đến cuối. Bây giờ với dân, cái gì chưa làm được thì tốt hơn hết là đừng nên hứa, cứ im lặng mà tiếp thu đã.

Tôi chìm đi trong ý nghĩ: Làm đại biểu dân cử không đơn giản.

- Dừng, dừng lại... - Ông Lê bảo cậu lái xe.

Chiếc xe u oát phanh kít. Mấy người cùng đi trên xe nháo nhào. Qua khung kính cửa xe, tôi thấy một người đàn bà cầm mê nón rách chạy thục mạng về ngôi nhà ven sông nằm cuối rìa làng. Ông Lê xuống xe vụt chạy theo người đàn bà. Mấy đồng nghiệp của tôi trên xe ngớ người ra. Bị thúc bách máu nghề nghiệp, tôi liền xuống xe chạy theo ông Lê.

Một ngôi nhà tranh tre thấp lè tè hiện ra. Nhà không có cửa, chỉ có một tấm tranh lớn được chống lên bằng cây tre đực. Nhà có hai gian. Gian bên có kê một chiếc bàn thờ, trên bàn có tấm ảnh mờ mờ ảo ảo. Gian bên này có một chiếc thùng phi mà mãi sau tôi mới biết chứa toàn khoai sắn khô. Gian này chìa ra một chái nhà để làm bếp, có chiếc kiềng ba chân, xung quanh có mấy chiếc nồi đen kịt. Cả tôi và ông Lê đứng như trời trồng. Giữa nhà, người đàn bà ngồi bệt xuống đất, úp mê nón rách khóc rưng rức. Tôi ghé tai ông Lê hỏi nhỏ “Ai vậy ?”, ông vẫy tay “Lính cũ của tôi đấy mà”. Lại thêm một lính cũ. Đi với ông Lê, ở đâu cũng gặp toàn lính cũ với cơ sở cũ thời nảo thời nào. Chán thật !

Ông Lê vỗ nhẹ vào vai người đàn bà:

- Này, răng mà khóc, về đây công tác, tôi rẽ thăm o đây.

Không nói không thưa, người đàn bà càng khóc to hơn. Lát sau chị với tay qua chái lấy ấm nước, hai cái ca pha cho tôi và ông Lê hai ca nước chè xanh.

Ông Lê lại dỗ người đàn bà:

- O đừng khóc nữa. Mình thế nào thì vẫn thế ấy. Xung quanh đây vẫn còn nhiều người tốt, rồi người ta sẽ hiểu ra. Gắng mà sống đã.

Nói đoạn ông Lê chậm rãi tiến đến bàn thờ thắp một nén hương. Lui ra, ông lấy ví rút mấy tờ bạc xanh dúi cho người đàn bà. Chị xua tay.

- Eng về thăm là tui mừng rồi, nhưng tủi quá eng ơi, mấy chục năm nay tui không cất mặt lên được với xóm làng.

- Cầm lấy ít tiền. Tiền lương tôi đó. Bữa trước tôi có gặp bên bộ phận chính sách, người ta đang nghiên cứu hồ sơ. Chờ vậy thôi.



Chị cầm lấy mấy tờ bạc ôm lấy ông Lê. Khuôn mặt chị xanh xao, gầy gò, nổi lên hai hốc mắt trũng sâu. Hai cánh tay chị quắt queo, đen cháy. Tấm áo bà ba đen có nhiều mảnh vá. Chị kể vụ này làm mấy sào bắp ven sông, hạn quá cháy sạch, còn mấy sào ruộng cũng coi như mất trắng. Ông Lê lơ đãng nhìn ra vườn. Nắng như dội lửa vào ngôi nhà thấp kín. Mồ hôi trong người cứ tứa ra. Tôi kiên nhẫn chờ đợi bằng cách lánh ra sân để hai người ở lại với nhau


*
Phải thật lâu sau chuyến đi ấy, nhớ lại chuyện cũ, tôi mới biết thêm về người đàn bà ở cuối rìa làng ven sông ấy qua những chắp nối quá khứ của người cùng thời.


Người đàn bà mà tôi gặp hôm ấy tên là Thoa. Hồi kháng chiến chị là một nữ du kích rất hăng hái nhiệt tình. Chị là lính của ông Lê. Cả  vùng này hồi đó đều tham gia hoạt động cách mạng. Thanh niên trai tráng thì lên đường đầu quân chủ lực, quân địa phương, số ở nhà thì vào du kích. Chị Thoa được cử làm liên lạc và lo hậu cần nuôi quân. Việc gì được cấp trên giao chị cũng cố gắng làm tròn. Nhà chị cha mẹ đã già, chỉ có hai anh em chị Thoa đều tham gia kháng chiến. Anh trai chị bị hy sinh do biệt kích phục bắn chết trong một đợt từ rừng về đồng bằng xây dựng cơ sở.


Lần ấy lính “Cộng hòa” càn xuống xóm Rú. Ngay hôm đó cấp trên lệnh cho toàn lực lượng phải rút đi, chỉ để lại một số ít cán bộ án binh bất động trong hầm bí mật. Xoá xong mọi dấu vết thì toán lính ập đến. Chị Thoa bị bắt ngay khi chưa kịp xuống hầm bí mật bỏ trống từ lâu ở gốc cây bông gòn.

Mấy tên lính trói chặt chị vào một gốc cây, đánh đập tra khảo chị chết đi sống lại nhiều lần. Một lính mặc sắc phục rằn ri sau khi dùng báng súng AR15 bổ liên tiếp vào chị, rồi ra lệnh cho một tên khác dội nước vào mặt chị.


Chị tỉnh lại. Hắn lại khảo: “Đ. mẹ cái con Việt cộng này. Hầm bí mật ở đâu khai ra để còn đường sống”. Chị trả lời: “Tui không biết, không biết”. Lại đấm, lại đạp, thân hình chị bê bết máu hoà với nước lạnh. Sau nhiều đợt như thế chị không chịu nổi. Những khuôn mặt quỹ sứ cứ chập chờn trước khuôn mặt tím bầm của chị. Một ý nghĩ yếu ớt sót lại trong đầu, chị chỉ đại căn hầm bỏ hoang lâu nay ở gốc cây bông gòn mà chị định xuống ẩn nấp khi nãy.

Miệng chị lắp bắp: “Chẳng có ai cả, chỉ có mình tôi và một cái hầm của tôi ở đằng gốc cây bông gòn kia”.


Lập tức, cả toán lính như vồ được mồi, đồng loạt lên đạn răng rắc. Một tiểu đội được lệnh bò tới căn hầm phía gốc cây. Căn hầm bỗng nhiên bật nắp, liền theo là một quả lựu đạn tung lên nổ chát chúa. Ba tên lính chết ngay tại chỗ. Một bóng đen nhảy lên khỏi hầm quét một băng đạn rồi chạy nhanh vào rừng.


Nhìn thấy cảnh này, chị Thoa chết điếng người đi, không ngờ dưới căn hầm bỏ không lâu nay lại có đồng đội của chị. Chị khuỵu xuống ngất đi. Trời nhá nhem tối, toán lính lôi chị về căn cứ dưới thị xã. Những ngày bị giam cầm, chị lên cơn điên dại. Không khai thác được gì, ít lâu sau chị được thả về. Về làng, mọi người đều xa lánh chị. Cấp trên quyết định kỷ luật chị vì khai lộ hầm bí mật, buộc phải đưa ra khỏi lực lượng.


Chiến tranh đi qua, ngày đất nước rợp cờ hoa mừng chiến thắng, chị thui thủi sống một mình trong bóng tối của thời gian. Cha mẹ chị đã chết trong nỗi đau uất nghẹn vì có đứa con phản bội quê hương. Một đôi lần chị có giải thích với gia đình và đoàn thể rằng do bị đánh quá đau nên chị chỉ khai căn hầm không có người, chứ không ngờ lần ấy có người xuống nấp dưới căn hầm của chị, nhưng chẳng có ai tin chị cả. Ngay cả cha chị vì nhục với làng nước không cho chị về ở chung với gia đình. Chị phải dọn ra ở túp lều của gia đình làm để nuôi vịt ở cuối rìa làng.


Khi cha mẹ chị mất, chị không chồng, không con, không người thân nương tựạ, chị vái tổ tiên xin được rước vong linh ông bà và di ảnh người anh về thờ tự ở căn nhà xiêu vẹo của mình. Nhiều lúc quá buồn, tuyệt vọng về thân phận, nghe một số người tốt bụng khuyên, chị định bỏ đi xa, tẩy xoá quá khứ để sống, làm ăn ở một vùng đất khách quê người, nhưng cuối cùng chị cũng chẳng thể ra đi được. Ai sẽ là người hương khói cho ông bà. Ngay cả chị nữa, cũng chẳng thể kiếm nổi tiền tàu xe để ra đi. Chị lại tiếp tục sống, làm lụng thui thủi một mình trong sự ghẻ lạnh của xóm làng, cho đến bây giờ khi đầu đã hai thứ tóc trong căn nhà quạnh quẽ ở cuối rìa làng.
*


Tôi hỏi thật cậu nhé - Ông Lê chất vấn tôi - Cậu đi nhiều, gặp nhiều, cậu nghĩ gì về trường hợp o Thoa ?


Tôi thú thực:


- Hoàn cảnh chị ấy thật đáng thương, nhưng khó quá. Cũng phải biết thông cảm và chia sẻ.

- Cậu nói rõ xem sao ?

- Là nói về đạo lý con người phải biết tha thứ cho nhau những lỗi lầm ngày đã qua. Ở đây chưa nói là lỗi lầm không cố ý...

Ông Lê im lặng không nói gì thêm. Bóng ông đổ xuống thẳm sâu. Làm người chỉ huy có bề dày như ông trong kháng chiến, nay lại làm đại biểu của dân, tôi biết ông có nhiều suy tư trăn trở. Thân tình với ông qua bao chuyến đi, tôi rất hiểu ông. Những lúc như ngồi với tôi đây, ông lại đang hướng nghĩ suy của mình về một nơi khác trong cõi người mênh mông mà ông đã dấn thân và ghé vai gánh vác.


Bất giác ông bảo tôi: “Ngày kia tôi lại đi vùng sâu. Cậu đi với mình chứ”.
Vâng, tôi nhận lời ngay vì đi với ông tôi hiểu thêm được nhiều điều, tìm đến được nhiều số phận của đời người và thấy rằng: Trăm ngã đường, có nhiều nẻo vui nhưng cũng lắm nẻo buồn.
Nguồn: vanchuongviet.org, đăng lại trên 4phuong.net
READ MORE - NGƯỜI ĐÀN BÀ Ở CUỐI RÌA LÀNG - Truyện ngắn của MINH TỨ

NHÀ - Truyện ngắn của NGUYỄN ĐỨC TÙNG


Một người hàng xóm mới dọn vào. Đó là một người đàn ông da trắng, cao, rắn chắc, khoảng ngoài bốn mươi nhưng tóc đã bạc, hàm râu không cạo lốm đốm. Trò chuyện làm quen qua mấy bụi sơn trà, anh hỏi: đằng ấy đã ở đây bao lâu? Khi biết tôi ở một chỗ gần mười năm, anh tròn mắt ngạc nhiên: lâu thế kia à? Trong cuộc sống nhiều thay đổi hiện nay, nhất là ở các thành phố lớn, người ta ít khi nào cư ngụ lâu một nơi: mười năm đối với nhiều người là lâu lắm.

Mỗi khi về nước, tôi thường đi dọc đường Trương Minh Giảng, ghé đại học Vạn Hạnh, tức đại học Sư Phạm ngày nay, trước tôi có một người bạn gái học ở đó, hay đi trên con đường trước bệnh viện Biên Hoà, gần căn nhà quen thuộc của nàng, thấy mỗi năm hay vài năm các tên đường, tên hẻm, lại bị đổi một lần. Đổi tên xoành xoạch nhiều như thế thì trẻ em lớn lên làm sao có ký ức bền vững? Thanh niên làm sao có tuổi thơ thơ mộng? Chúng yêu nước ra sao?

Có lẽ một phần vì vậy mặc dù nhu cầu gia đình mỗi ngày một lớn, khi nhiều người cùng lúc đến thăm không có phòng riêng để ngủ, phải nằm lăn trên sàn nhà, mà bạn bè của tôi thì đông, tôi vẫn ngoan cố không chịu đổi nhà. Bạn có bao giờ nghĩ đến việc lập một danh sách những ngôi nhà mà mình đã từng sống qua?

Bảy năm đầu tiên của đời mình, ngôi nhà của cha mẹ tôi là nhà tranh vách đất sau hòa bình lập lại, chia đôi đất nước. Sau đó chúng tôi chuyển qua nhà mới khang trang hơn, cha tôi xây mất ba năm ở trên khu vườn rộng mới mua gần đó. Đổi nhà nhưng vườn vẫn giữ, tôi thường chạy qua chạy lại để hái trái cây, mùa hè suốt ngày ngồi vắt vẻo trên những cành ổi la đà trong khu vườn cũ thuở trời đất thanh bình đầu những năm sáu mươi. Vì vậy mà chẳng có nhiều thay đổi. Rồi tôi đi xa, ở trọ nơi này nơi khác. Tôi đã từng đếm và nhớ được mười hai địa chỉ khác nhau ở Việt Nam và mười địa chỉ rải rác trong tám thành phố Canada mà tôi đã từng ở, trước khi mua một ngôi nhà nhỏ bên bờ Ngũ Đại Hồ, gần khu vực một ngàn hòn đảo. Rồi lại bán nhà, sau một cuộc tình tan vỡ, cay đắng nhưng không bất ngờ, rồi lại mua nhà, rồi lại bán nhà, sau một cuộc tình tan vỡ khác, bất ngờ nhưng không cay đắng, rồi lại mua nhà. Giữa hai lần mua và bán là hai lần thuê nhà hay thuê phòng tạm trong các chung cư.

Những căn phòng và ngôi nhà tôi thuê có thể gọi là nhà được chăng? Năm 1996, suốt nửa năm trời tôi đã từng sống trong căn lều của người đi săn, cũng gọi là cabin mùa hè, bên bờ hồ, gần chân núi. Ở đó tôi đã gặp một con gấu hiện ra ngay trước mặt, sau một khúc quanh, khi chạy bộ trong rừng. Buổi sáng thức dậy trời mù sương, một con hươu nhỏ kê đầu lên cửa sổ tò mò nhìn vào mặt tôi đang ngủ. Mặt nước ngoài xa xanh biếc lăn tăn gợn sóng. Những ngày vô cùng buồn, những ngày vô cùng vui, những ngày muốn tự tử, hay muốn thay đổi thế giới, những ngày tự do với những ý tưởng trong suốt như pha lê, như ánh phản chiếu của những cây thông dưới đáy hồ lặng lẽ, tưởng vẫn còn thơm mùi trái thông tươi. Chúng đứng im lìm như những ý tưởng minh triết đã hoá thành cây cối.

Sáu tháng sau khi người hàng xóm của tôi mới dọn vào, anh ta lại dọn đi cùng với vợ và đứa con gái ba tuổi tên Natasha, một cái tên rất Nga, mặc dù cha mẹ không phải là người Nga. Tôi định bụng sẽ hỏi vì sao họ đặt cái tên đó nhưng chưa có dịp. Một hôm tôi đang đứng trong vườn sau nhìn qua nhà hàng xóm, vắng vẻ chưa có người thuê mới, ngẩn ngơ nhớ người hàng xóm nói giọng Pháp gốc Quebec vui tính mới quen đã vội chia tay, nhớ con bé Natasha nhí nhảnh, tóc hung đỏ, có cái nốt ruồi rất đậm trên má, hay trò chuyện với tôi qua hàng rào, thì một người khách lạ đến đẩy cổng xin phép vào vườn ngồi một lát. Đó là một ông già bảy mươi hay tám mươi tuổi, cao, ốm yếu, chòm râu bạc lưa thưa.

Tôi ngạc nhiên hỏi chuyện rồi miễn cưỡng mời ông vào. Ở cuối vườn sau nhà tôi có một cây sồi nhiều tuổi, cao vút tỏa bóng mát rộng lớn. Buổi sáng tinh mơ, một loài chim biết hót, lông vàng, có lẽ là họa mi, thường về đậu trên ngọn cao, hót từng tiếng gióng đôi suốt nhiều giờ, mùa hè này đến mùa hè khác. Thấp hơn, ở giữa chừng, một con chim bách thanh chuyên nhái giọng các loài chim khác. Có hôm nó nhái được cả tiếng dế kêu. Gần gốc cây, dưới thấp, đôi khi một con chim gõ kiến thoăn thoắt mổ như người thợ tận tụy công việc. Ông lão kể rằng, lúc lên mười hai tuổi chính tay ông đã trồng cây sồi này. Nay vừa đúng sáu mươi năm. Nhà cũ đã bị phá đi làm lại, đổi chủ nhiều lần, nhà mới mọc lên trên nền cũ, cây cối và cảnh vật hoàn toàn thay đổi, nhưng riêng cây sồi vẫn còn đây. Tôi cảm động, rút lui, để ông ngồi một mình sau khi mang cho ông ly nước trà nóng và một cái ghế nhỏ.

Suốt buổi, từ cửa sổ phòng làm việc thỉnh thoảng tôi nhìn ra, người đàn ông vẫn ngồi trong bóng mờ cho đến khi hoàng hôn chập choạng. Tôi không kịp hỏi hiện nay ông ở đâu, gia đình con cái ra sao, chỉ qua câu chuyện trước đó biết rằng ông rời khỏi căn nhà mà tôi đang ở gần năm mươi năm về trước lúc tình nguyện nhập ngũ và ngay sau đó được gửi qua châu Âu tham gia trận đánh nổi tiếng ở Normandie. Và đây là lần đầu tiên ông trở lại khu vườn cũ của mình. Tôi đi xuống nhà bếp pha ấm trà mới, sắp ra dĩa một ít bánh ngọt, định bụng mời ông vào nhà nghỉ ngơi một lát. Khi tôi ra vườn, thì người khách lạ đã đi mất. Tôi nhìn quanh, trên chiếc ghế ông ngồi chỉ còn lại chiếc tách đã uống cạn và một cuốn sách không có bìa, kiểu bỏ túi, giấy vàng cũ. Đó là một cuốn tiểu thuyết tôi không biết nhan đề, không rõ tác giả là ai, vì mất cả bìa trước lẫn bìa sau. Tôi cũng không biết ông tình cờ bỏ lại hay cố tình. Cuốn sách ấy ông mua trong một hiệu sách cũ như tôi vẫn thường làm, hay nhặt được dọc đường, chẳng có giá trị gì cả mà nhiều khi chúng ta tiện tay thì cầm lên rồi bỏ lại? Hay đó là một cuốn sách quan trọng đối với cuộc đời một con người mà ông quyết định để lại bên thân cây sồi già như lời từ biệt sau cùng đối với người bạn cũ?

Một kỷ vật, một món nợ ân tình trầm trọng mà sau bao nhiêu năm đeo đẳng đến nay ông không còn cần phải mang theo nữa?

Trên trang thứ hai, ở dưới hàng chữ đề tên nhà xuất bản, có một dòng chữ bằng tay mực đã nhoè nhưng vẫn còn đọc được khá rõ ràng: cho Mary Howe thân yêu, Xmas, 1939.

NĐT

Nguồn: damau.org

READ MORE - NHÀ - Truyện ngắn của NGUYỄN ĐỨC TÙNG