Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Thursday, July 28, 2022

TÌM LẠI KHÚC RU NÔI - Thơ Hải Thuỵ

 

Nhà thơ Hải Thuỵ

TÌM LẠI KHÚC RU NÔI

 

Bao kẻ bỏ đồng ra phố chợ

Ta tìm... yên lặng chốn làng quê

Bỏ lại sau lưng nhiều dự tính

Về nghe kẽo kẹt tiếng hàng tre

Chiều hong gió mát - nồm đông thổi

Ly rượu Kim Long* thỏa nỗi niềm

Nghiêng bầu tâm sự chung nhau cạn

Mặc đời tất bật - bến với thuyền

Đêm trăng lồng lộng vàng con nước

Thả sức đùa vui giữa đất trời

Ngụp lặn - tắm lòng cho tươi trẻ

Cái thời ngây dại... tuổi đôi mươi

Lãng đãng thơ xanh miền ký ức

Rày đây - mai đó gác bước chơi

Cuộc lữ thường khi không nơi trú

.... khuya vẳng tiếng hời - khúc ru nôi

                         ---

Chợt động hiên ngoài - chim sáo gọi

Mạ ơi con đang ở bên người...!


HẢI THỤY

haithuydnb@gmail.com

READ MORE - TÌM LẠI KHÚC RU NÔI - Thơ Hải Thuỵ

"RỒI MÙA TOÓC RẠ RƠM KHÔ…” - Tùy bút của LÊ ĐỨC DỤC

 

Nhà báo Lê Đức Dục

"RỒI MÙA TOÓC RẠ RƠM KHÔ…” 

Tùy bút của LÊ ĐỨC DỤC

 

1.

Không biết miền Trung có câu ca dao mô da diết hơn cái câu: "Rồi mùa toóc rạ rơm khô/Bậu về quê bậu biết mô mà tìm.” Thoạt nghe ai cũng băn khoăn đã "toóc” sao lại còn "rạ”? Thật ra phương ngữ Quảng Trị, "toóc” chính là rạ - phần thân lúa còn lại sau khi gặt xong - chữ rạ trong rơm rạ, còn chữ "rạ” chính là "rã” khi gốc rạ rã ra, gục xuống.

 

Bây giờ có nhiều bạn sẽ hỏi vì sao mà đợi đến khi "rồi mùa toóc rạ rơm khô” mới bần thần da diết: "bậu về quê bậu biết mô mà tìm”? Câu ca ấy tôi nghe mạ tôi ru mình rồi sau này ru những đứa em của mình mà thuộc. Nhưng phải khôn lớn hơn mới biết trong câu ca dao ấy có một phần đời của ông bà ngoại mình.

 

Ngày xưa, ruộng vùng Cam Lộ quê tôi không nhiều nhưng cũng đủ nổi lên vài điền chủ, cố ngoại tôi là một chủ ruộng như thế. Ông ngoại tôi, dù là con điền chủ thì cũng như bao trai tráng nông dân ra đồng cày cuốc như một lực điền, cả mấy anh em trai của ông ngoại tôi chỉ duy nhất người ông út được học hành, nổi tiếng với làm thơ, kể vè mà dân vùng chợ Phiên Cam Lộ giờ vẫn còn nhắc lại "Vè ông Khánh”.

 

Mùa gặt về, những tốp thợ gặt vùng Hải Lăng - vốn ruộng nương mùa màng gặt xong sớm lại tìm lên Cam Lộ để gặt, có một thôn nữ của làng Duân Kinh - Hải Xuân -Hải Lăng nằm trong nhóm bạn gặt rồi không biết bao nhiêu mùa gặt lên về như thế, cũng không biết có phải từ câu ca "rồi mùa toóc rạ rơm khô” mà ông ngoại tôi đã lặn lội đi tìm bà ngoại tôi hay không, nhưng chuyện tình cô thợ gặt và anh con trai nhà điền chủ đã thành vợ chồng vào những năm 30 của thế kỷ trước. Mấy chục năm trước, khi tôi là đứa trẻ con tò mò về những câu ca dao và chuyện đời xưa, mấy cậu mấy dì đều kể rằng những mùa gặt ngày xưa, tức là thuở những năm 30 ấy, cuộc sống khó khăn nhưng thanh bình, bây giờ nhớ lại cái không gian gần một thế kỷ trước, tôi vẫn cứ nghe ngân vọng những câu thơ của Lưu Quang Vũ: "Lênh đênh ai hát ngoài song cửa/ Bài ca thanh bình đêm cũ/ "Hoa lá quên giờ tàn /Mây trắng bay tìm đàn” /Ngày xưa yên ấm quá/ Trẻ hát đồng dao trên phố/ Con trai xách điếu đi cày/ Con gái quang liềm gặt lúa..” Bài thơ ấy trích ca từ từ một ca khúc xa xưa - bài "Khối tình Trương Chi” của Phạm Duy, cũng hoang hoải trong một màu nhung nhớ "đêm năm xưa, khi cung đàn lên tơ, hoa lá quên giờ tàn, mây trắng bay tìm đàn..” Và những đêm mùa màng xưa ấy, sau một ngày gặt lúa, đêm đêm trên khoảng sân là trai gái vừa đạp lúa vừa hò đối đáp, những câu hò có khi tình tự có khi đâm bắt cứ thế, cùng với thời gian giăng mắc vào trí nhớ, rồi trong một lúc nào đấy, những câu ca vui buồn ấy bật ra, khảm vào gương mặt quê hương, như tôi bây giờ, cứ mỗi lần nghe cái câu "rồi mùa toóc rạ rơm khô” là lòng cứ đinh ninh câu ca ấy được cất lên từ chính mảnh sân gạch của ngôi nhà cố ngoại tôi, trong một đêm xa xưa khi cô thôn nữ Hải Lăng theo bạn gặt về đây và không ngờ rồi làm dâu đất Cam Lộ.

 

Bao nhiêu dâu bể đổi dời, bao nhiêu trần ai biến dịch, trên đồng đất quê nhà thanh bình với những câu ca da diết ấy đã đi qua tháng năm bom đạn, đã nhuốm đỏ máu người thời phục hóa đồng hoang, nhiều mảnh ruộng bùn nay đã nên phố nên phường lầu cao gió lộng, tất cả đã đổi thay, nhưng câu ca ấy vẫn bất tử giữa đất trời, trĩu nặng yêu thương với quê nhà thương khó..

 

2.

Vì sao tôi lại nhớ về câu ca dao "toóc rạ rơm khô” ấy trong những ngày xuân tươi thắm này? Là còn bởi câu ca đó, bây giờ được dân gian chế nên những phiên bản mới, thậm chí có lần tôi còn nghe ai đó, trong một lần vui vầy bên chén rượu đã đổi ra rất hài hước "rồi mùa toóc rạ rơm khô/bạn về Cam Lộ nhớ ghé vô... .” Sau từ ghé vô… (ba chấm) ấy là bất cứ một địa điểm nào của Cam Lộ mà bạn thấy thích .Khoan nói đến chuyện "chế” lại câu ca, bản thân một sáng tác được "chế” thành một phiên bản khác đã nói lên sức sống , sức thâm nhập của tác phẩm ấy, mà dân gian thì bao giờ cũng thích tếu táo đùa vui.

 

Vậy thì bây giờ cũng câu ca ấy, nếu muốn mời ai đó "rồi mùa toóc rạ rơm khô/ bạn về Cam Lộ nhớ ghé vô..? Thì tôi sẽ mời bạn mình ghé vô đâu? Ngày xưa từ chổ cô thợ gặt miệt đồng trũng Hải Lăng lên cho đến miền trung du Cam Lộ đâu có chuyện đò xe, đường sá cũng không thuận tiện nên phải cứ đường bộ mà đi, nên thành ra quan san cách trở dặm dài, thành ra cứ bâng khuâng "biết mô mà tìm” chứ bây giờ chỉ một giờ chạy xe máy là tìm tới tận nơi tận chốn, nên thay vì chuyện bâng khuâng man mác "biết mô mà tìm”, nay bằng hữu gặp nhau lại "tìm mô (để) mà biết”.

 

Không có nhiều danh lam thắng tích tầm di sản thế giới như những bạn bè các vùng lân cận, bạn Huế khoe về lăng tẩm đền đài, bạn Quảng Bình khoe Phong Nha Kẻ Bàng, rồi thêm cái hang động Sơn Đoòng đặc biệt nhất thế giới nữa, nói gần hơn, bạn xứ biển khoe nắng vàng cát trắng, bạn xứ núi khoe cà phê thơm sương mù đẹp, còn về Cam Lộ thăm mình, mình sẽ dắt bạn đi đâu? Tất nhiên là khoe ngay hai vùng đất hai lần làm thủ đô, vùng Cùa, hồi kinh đô Huế thất thủ, năm 1885 vua Hàm Nghi xa giá ra đây ban chiếu Cần Vương, kêu gọi toàn dân kháng Pháp; còn trung tâm huyện lỵ bây giờ vốn là trụ sở của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam những năm 1973-1975. Vùng đất chi mà kỳ lạ, buổi đất nước gian nan cơ cực thì lại về đây đặt..thủ đô kháng chiến. Rồi kháng chiến thành công, dài theo đường chiến thắng, đôi khi những dinh lũy hào thành xưa bặt dấu, khu trụ sở với những nghi thức lễ tân ngoại giao quốc khách xưa cũng phai mờ..Nhưng dù cái "bề mặt vật chất” những hào lũy dinh trại trụ sở…có bị xóa nhòa thì lịch sử vẫn lặng lẽ khắc vào thời gian miên viễn những câu chuyện riêng của đất đai xứ sở, không cách gì mờ phai được. Và vài mươi năm trong dằng dặc ngàn năm, những câu chuyện ấy chỉ là cái chớp mắt của thời gian, nhưng dù là khoảnh khắc chớp mắt thì nó vẫn ngưng đọng lại đấy, vĩnh viễn và bất tử!

 

Nhiều khi về quê nhà, trong những bữa rượu làng với bạn bè, tôi vẫn hay có ý nghĩ là nếu mình thiết kế một "tour” loanh quanh xóm làng cho bạn, tôi sẽ đưa bạn mình đi đâu? Sau những di tích, địa danh được nhắc đến nhiều sẽ là một chốn quê nào đó ? Có một lần, đứng trên chiếc cầu nối từ thị trấn Cam Lộ qua vùng Ba Thung, chụp một bức ảnh về những bãi cỏ triền sông và đưa lên một trang mạng xã hội lúc bấy giờ là Yahoo!360, nhiều bạn bè đã hỏi tôi về cái thảm cỏ bờ sông Hiếu ấy, có thật xanh như vậy hay tôi đã photoshop nó? bạn đâu biết rằng ở những dòng sông quê nghèo miền Trung, nước sông chảy xiết nên lòng sông chỉ cát và đá chứ không có bùn, bờ sông ẩm cát ấy, mọc giăng giăng một loại cỏ chỉ xanh mịn. Rồi một chiều nào đó, đưa bạn về quê, đâu cần chi đi đâu xa xôi diệu vợi. Hãy ra một thảm cỏ bờ sông xanh mịn như thế, và bên dòng sông nước chảy không phải "lơ thơ” mà khá xiết để đủ cho những con tôm con cá phải nỗ lực lội bơi để thắng sức mạnh dòng nước, sông quá trong xanh nghèo phiêu sinh vật , phù du nên muốn kiếm ăn con cá con tôm càng phải vất vả bơi lội kiếm ăn lại càng khiến con cá con tôm nơi đây thịt săn chắc thơm ngọt hơn.


Nếu còn giữ được những ngón nghề tuổi thơ thì hãy nhớ những đống đá dưới lòng sông, ngày thơ bé, tôi vẫn thường xếp những viên đá to tầm cái bánh chưng thành đống làm nơi cho tôm càng xanh tụ tập, rồi chiều tối, mang theo những cái "dẹp” đặt miệng dẹp vào đống đá, trong dẹp là một khúc xương nướng thơm, đặt dẹp đầu hôm, rạng sáng đi dỡ, thế nào cũng có dăm chú tôm càng xanh sa vào đó, chỉ cần dăm cái dẹp là có một mớ tôm càng đẹp lộng lẫy. Kiếm một mớ tôm càng xanh đặc sản sông quê ấy, khêu một bếp than bên bãi cỏ bờ sông và đặt những con tôm càng lên bếp, con tôm sem sém cháy chuyển màu ngã vàng rồi đỏ ửng, mùi tôm thơm trên bếp, mùi khói bãi bên sông, chén rượu gạo quê làng đón bạn, hàn huyên chuyện quê nhà cho đến lúc trăng lên xê xế ngọn tre, trăng lấp lánh tỏa sáng xuống dòng sông lao xao ánh bạc. Hạnh phúc đôi khi đâu phải là cao lương mỹ vị chốn thị thành lóng lánh cao ốc? Nếu thích nữa thì chạy về nhà lấy cái nơm, và bây giờ có đèn pin halogen sáng quắc, không phải như xưa lấy lồ ô đổ dầu hỏa làm cây đuốc khói mù đi soi cá. Với chiếc đèn pin hiện đại ấy, chiếu vào đáy cát, những con cá bống thệ vàng ươm đóng đèn, những con cá lấu trong đám rong mượt ngơ ngác, nếu nhớ nghề thì soi một đêm cũng đủ một nồi canh chua cá lấu mà tôi tin không một loài cá nào có thể nấu canh chua ngon hơn. Nồi cá bống kho khô "quắt tai”, kho sao cho con cá "ngó lui” , và thế thêm một bữa cơm trưa dưới bóng cây khế trong vườn, hoa rụng tím li ti giữa mâm cơm thơm thảo, chỉ vậy thôi mà bạn bảo đủ "năng lượng” để về với xô bồ thị thành, khi nào mệt mỏi lại về bên sông quê, lại khêu bếp than đợi trăng lên, trong hương cỏ bờ sông, trong mùi rong rêu mằn mặn, nghe quê nhà văng vẳng câu ca xưa, ừ thì "rồi mùa toóc rạ rơm khô/ bạn về Cam Lộ nhớ vô thăm mình ”…


                                                                    LĐD

                                                    leducducqt@gmail.com


READ MORE - "RỒI MÙA TOÓC RẠ RƠM KHÔ…” - Tùy bút của LÊ ĐỨC DỤC

ÁNH TÂM XUÂN - Chùm thơ Tuệ Thiền Lê Bá Bôn

 Một số bài thuốc chữa bệnh từ cây hoa hướng dương | Sở Y tế Nam Định


Chùm thơ

Tuệ Thiền Lê Bá Bôn



ÁNH TÂM XUÂN


Từ độ có tâm xuân
Ngày đông thêm nắng ấm
Ánh dương không xa thẳm
Hương sắc thiền khai hoa

Từ độ có tâm xuân
Ngày hè thêm gió mát
Hương sắc thiền toả ngát
Cho mọi người - cho ta

Bao vần thơ lấm bụi
Nhớ lại thời ca dao
Bao linh hồn trần tục
Tỉnh thức nhớ trời cao...

Mùa xuân ơi mùa xuân!
Cảm ơn hương sắc thiền
Giữa cõi đời gian khổ
Giữa tình đời đảo điên

Mùa xuân ơi mùa xuân!
Cho người vơi nước mắt
Cõi lòng thêm tiếng hát
Yêu cuộc đời thăng hoa.


2021

***


THIỀN


Đối diện với tâm-đang-là
Nhất thể định tuệ an hoà chân như...
“Phàm phu tức Phật” - lời xưa
Tâm ngôn tĩnh lặng - mây mù chợt tan.


2021

***


CHÙM THƠ VÔ ĐỀ


1.
Những năm những tháng... ngày xưa
Mà lòng cứ ngỡ như vừa hôm qua...
Chuông chiều in bóng quê nhà
Nỗi niềm vạn nẻo... vẫn là cố hương.
--


2.
Dù đời lắm nỗi đa đoan
Nhớ mùa Kiết Hạ, an nhàn cõi tâm...
Giữa lô xô sóng phù vân
Đáy lòng vẫn ánh trăng rằm tháng Tư.
--


3.
Lang thang từ thuở luân hồi
Sắc màu nhân thế... mãi rồi cũng bưa...
Chừ về lục bát ta xưa
Ấm tình dân dã nắng mưa quê nhà.
--


4.
Ngày mai ai có hỏi tôi
Thưa rằng tôi đã chết rồi, hôm qua...
Xin chào tạm biệt gần xa
Bình yên ở lại - thái hoà cõi tâm.
--


5.
Đuổi bắt muôn vạn sự đời
Tỉnh ra mới biết: cái “tôi”... tìm mình!...
Mến yêu cuộc sống tuỳ duyên
Bổn Lai Diện Mục toạ thiền cùng trăng.


***
.

(Trích trong tác phẩm Đồng Nhất Thể của tác giả Lê Huy Trứ (Thuvienhoasen org):


“Tuệ Thiền Lê Bá Bôn diễn tả về sơ ngộ Bản Lai Diện Mục: “Kiên trì tỉnh giác (kiến chiếu, lắng nghe) thâm sâu và toàn diện trạng thái mê (trạng thái niệm tưởng, tâm ngôn tâm hành), thì tâm có sự đột chuyển (chuyển y, dừng lại): trạng thái sơ ngộ Tâm Không (Viên Giác, tánh Không, niết-bàn, Phật tánh) hiện tiền (bản lai diện mục hiện tiền); và tiếp tục hành thâm (ngộ nhập Viên Giác - mang năng lượng và diệu dụng tự lợi lợi tha tối thượng).

--
2021


Tuệ Thiền Lê Bá Bôn

lebabon04@gmail.com



READ MORE - ÁNH TÂM XUÂN - Chùm thơ Tuệ Thiền Lê Bá Bôn