Thơ bắt nguổn
từ cuộc sống, tâm hồn của con người và sự làm việc hằng ngày."Thơ" có
rất nhiều dạng thơ như: Song thất, lục bát, thất ngôn tứ cú, thất ngôn bát cú, thể
văn biến ngẫu v.v. Ngoài ra ca trù cũng có thể gọi là biến thể của thơ mà ra. Rồi
thỉnh thoảng vẫn có những câu tạp đối, nó cũng là hình thức biến dạng từ thơ mà ra. Ngoài những dạng thơ
như trên, có một loại thơ nổi tiếng và rất thịnh hành từ trước đến nay, mặc dù lớp
trẻ lớn lên hầu như ít để ý đến hoặc không hề biết tới. Đó là thơ ĐƯỜNG.
Tôi có
"thằng" cháu nội 18 tuổi đang đi học. Nó sinh ra và lớn lên ở Mỹ,
cũng biết đọc, viết chữ Việt "chút chút". Một hôm, nó thấy tôi đọc
tập thơ "Hoa Vông Vang" của Đổ Tốn. Nó hỏi tôi: "Ông nội đọc gì
vậy? Tôi trả lời: "Ông đang đọc thơ Đường.” Nó ngạc nhiên và không hiểu
thơ Đường là gì? Nó còn hỏi rằng có phaỉ thơ đó "ngọt" lắm không. Tôi cười không trả lời. Sau đó, tôi gọi
nó đến và giải thích: "Thơ Đường là
một thể thơ xuất phát từ đời nhà Đường bên Trung Hoa. Sau này cháu có cơ hội
học hỏi sẽ hiểu.”
Quan niệm về thơ của Nho Gia: "Tại Tâm
vi chí. Phát ngôn vi thi. Thi ngôn chi”. Khổng Tử nói về Kinh Thi, đó là tập
thơ cổ nhất được truyền lại. Thơ là cảm xúc chân thật, phát khởi từ lòng người (Lê
Qúy Đôn).Tập thơ Ly Tao có một ảnh hưởng rất lớn trong làng thơ ở Trung Hoa và
cả Việt Nam.
Tại sao thơ
ĐƯỜNG hưng thịnh ?
Phải nói rằng xã hội
đời Đường khá ổn định, tư tưởng cởi mở (theo lối quân chủ chuyên chế).Tam giáo đồng
nguyên. Văn hóa phồn thịnh, hội họa, kiến trúc, điêu khắc, âm nhạc, thư pháp
v.v. được giao lưu với khối A Rập, Ấn Độ.
Cái cá thể, trong
triết học nhân sinh Nho, Đạo, Phật được tôn trọng. Mỗi cộng đồng lẫn cá thể
được tự do nói lên nỗi niềm tâm sự cá nhân hay tập thể của mình.
-Thi là họa có
lời.
-Họa là thơ
không lời.
-Nhạc là
chuyên chở ý của thơ và họa.
Nguyên tắc cấu tạo
thơ, ý, nhạc, họa v.v... là cấu tạo hình tượng thanh, biểu tượng của thơ, thi
và ca.
Tìm hiểu nguyên
tắc câu tứ của thơ ĐƯỜNG phải đi từ tâm
thức truyền thống của người Trung Hoa. Họ cho rằng thơ là một "tôn
giáo" (Lâm Ngữ Đường).
Thơ đường cô đọng
súc tích, giàu tính biểu tượng. Không chỉ do các thủ pháp nghệ thuật truyền
thống tạo nên mà còn do một số nguyên tắc, biểu hiện, "thi luật" được
coi trọng.
Kinh Thi có thể
nói là cội nguồn của thơ Trung Hoa. Thơ Trung Hoa đã có một quá trình chừng
2500 năm chưa hề dứt đoạn. Khỗng Tử đã dùng tập thơ này để dạy học trò. Khổng
Tử nói: "Thơ có thể làm phấn khởi lòng người, giúp quan sát phong tục, hòa
hợp với mọi người, có thể bày tỏ nỗi sầu oán, gần thì thờ cha, xa thì thờ vua, lại
biết được nhiều tên chim muông, cây cỏ".
{Thi khả dĩ hưng, khả
dĩ quan, khả dĩ quần, khả dĩ oán, nhĩ chi sự phụ, viễn chi sự quân, đa thức ủ
điểu, thú thảo mộc chi danh}
Nhận xét này nhằm vào
tập Kinh Thi, nhưng cũng khởi đầu cho một quan niệm truyền thống về thơ của
người Trung Hoa.
Ở đây, có sự tương
hợp giữa yêu cầu sự rung cảm nghệ thuật của cảm hứng, đạo đức và của cả ý
thức về trách nhiệm xã hội.
Từ Kinh Thi (TCN)
đến Đường Thi (SCN), thơ ca đã trải qua một quá trình hàng chục thế kỷ để định
hình về mặt thi pháp. Đến đời Hán (TCN) và (SCN), triều đình đã có sáng kiến
lập ra Nhạc Phủ để sưu tầm thơ, ca dao dân ca v.v. nên chúng ta có được thêm sự
nối tiếp truyền thống Kinh Thi. Sang đời Ngụy (SCN), ba cha con Tào Tháo , Tào
Thực, Tào Phi với những vần thơ cứng cỏi, giàu chí khí, đã tạo nên một thời văn
học Kiến An.
Đến đời Đường,
thơ ca cổ điển Trung Hoa đã bước lên đỉnh vinh quang. Thời Đường là thời đại
hoàng kim của thơ ca với hơn 50.000 ngàn bài thơ của 2.300 thi nhân, Thơ Đường
là tập đại thơ của thơ ca cổ điển. Đời Đường chia ra nhiều thời kỳ :
-Sơ Đường(618-713).Tuy chưa xuất hiện đông
đảo nhà thơ nhưng thơ của Vương Bột, Lạc Tân Vương, Dương Quýnh v.v. vẫn là
những nhà thơ nổi tiếng được đời người sau nâng niu ưa chuộng.
-Thịnh Đường
(713-766). Thời này đã xuất hiện nhiều thi nhân nổi tiếng, không chỉ giàu số
lượng, mà còn sung mãn về chất lượng. Với Thi Tiên Lý Bạch, Thi thánh Đổ Phủ,
Thi Phật Vương Duy... là những người đã bước lên đỉnh cao danh vọng về thi ca.
Lý Bạch với 2 câu :
"Hứng
lên bút, vung rung ngũ nhạc,
"Thơ
thành át sóng biển khơi".
Ngoài ba vị ấy còn
có Vương Xương Linh, Cao Thích, Sầm Tham, Mạnh Hạo Nhiên v.v.
Bước sang
thời kỳ 60 năm của Trung Đường. Có một số nhà thơ xoay "thời cuộc" dưới
ngọn cờ :"Vị quân, vị dân nhi trước" của Bạch Cư Dị, tiếp nối ý tứ
của Đổ Phủ. Nhưng thực ra thơ của ông chỉ nói đến những điều trái ngược "Duy
ca dân sinh bệnh" đã định sẵn của ông. Bài "Tỳ bà hành" rất quen
thuộc với người Việt Nam, qua bản dịch đầy tâm huyết của Phan Huy Thực, là một
ví dụ tiêu biểu. Ngoài Bạch Cư Dị, Trung Đường còn có : Vi Ứng Vật, Lý Đoan, Liễu
Tông Nguyên, Lưu Vũ Tích ... cũng là những nhà thơ được người đời truyền tụng.
Cuối Đường
với 70 năm giai đoạn thơ ca vãn Đường,
bên cạnh những nhà thơ cảm thương uỷ mị như: Lý Thương Ẩn , Đổ Mục ... với hàng
loạt nhà thơ: Bì Nhật Hưu, Nhiếp Di Trung, Đổ Tuân Hạc ... kiên trì xu hướng:
Tân Nhạc Phủ.
Sang Tống (960-1278),
tuy thơ không bằng Đường nhưng cũng xuất hiện một biến thể mới của thơ đó là:TỪ.
Đời Đường, Ngũ Đại các thi nhân có thói quen sáng tác lời thơ đưa cho kỹ nữ hát
(Lý Bạch). Các bài thơ ấy phải viết theo quy định một nhạc phổ nhất định.Từ, là
thơ viết theo một nhạc phổ quy định của làn điệu âm nhạc, người ta gọi là điển
Từ khác với Tác. Đời Tống thịnh về Từ, nhưng ít thành tựu. Người ta không tìm
thấy cái mông lung huyền ảo của thơ Đường trong thơ Tống, cũng không tìm thấy
thơ về tình yêu trai gái sôi nổi trong thơ Tống. Nhưng thơ Tống có những thi
nhân nổi tiếng cả về Từ và Thơ như: Tô Đông Pha, Lục Du. Tô Đông Pha là một vị
quan nổi tiếng vì dân, mà cũng là một nhà thơ nối tiếp Bạch Cư Dị. Bài "Lệ
chi thán" là một ví dụ. Còn Lục Du
thì đời quá lận đận, tuy nhiên ông vẫn sáng tác rất nhiều bài thơ hay, có một
số lượng kỷ lục. Bài "Thi nhi" rất nổi tiếng.
Nhà thơ Lý Bạch đôi lúc cảm thấy cô đơn
da diết khi bị ruồng bỏ nhưng ông vẫn tin tưởng "Thiên sinh ngã tài tất
hữu dụng". Tất cả những trạng thái tâm hồn đó có liên quan đến tư tưởng
triết học truyền thống của người Trung Hoa.
Thơ Đường, thơ
của thời kỳ "Tam giáo đồng nguyên", thấm nhuần cả ba cảm hứng Nho,
Đạo, Phật.
Lý Bạch rõ ràng chịu
ảnh hưởng của tư tưởng Đạo Gia .Vương Duy là đại diện cho của nhân tố Phật và
Lão.
Bạch Cư Dị, Đổ
Phủ lấy mặt tích cực của tư tưởng Nho Gia làm nền tảng. Hàn Dũ cách tân cổ văn
cũng lấy tư tưởng Nho Gia làm đầu.
Thơ cổ Trung Hoa có ảnh hưởng sâu xa đối với
thơ Việt nam. Những nhà nho Việt Nam cũng đã đem Kinh Thi ra để dạy học trò.
Người ta vẫn ngâm "Ly Tao của Khuất Nguyên” (mồng 5 tháng 5 AL vẫn nhớ
ngày), Đào Tiềm thì đã đi vào tiềm thức
của nhiều người yêu thơ.
Bài "Hoàng Hạc Lâu" của Thôi Hiệu
có hơn chục bản dịch khác nhau. Người Việt vẫn luôn luôn mê thơ Đường, dịch thơ
Đường, mượn nó để gửi gắm buồn, vui của chính mình.
Có điều lý thú là,
thơ Đường đọc theo âm Hán Việt nó lại hay hơn, đúng luật hơn, có âm vang hơn đọc theo âm Hán. Bởi vậy, có thể nói đến một sự tái
sinh của thơ Đường qua tâm huyết của các nhà thơ Việt Nam.
Ngô Thời Nhiệm,
một thời đã nói :"Nước Việt Nam ta lấy văn hiến để dựng nước, thi ca thai
nghén từ đời Lý, thịnh vượng ở đời Trần, rầm rộ ở thời Hồng Đức triều Lê. Một
bộ "Toàn Việt thi lục" về cổ thể thi không chịu nhường thi ca đời Đường,
Tống, Nguyên, Minh. v.v. Thi ca Việt Nam vẫn nhả ngọc phun châu vậy
Thật đúng là "Thi ca chi bang".
Vượt qua bến bờ của Trình Hạo, Chu Huy, lên trên cả Khuất Nguyên, Tống Ngọc, đi
vào cung thất Y Doãn, Chu Hán và ra khỏi con đường của Lý Bạch, Đổ Phủ.
"Văn như
Siêu, Quát vô Tiền Hán
"Thi đáo
Tùng, Tuy thất Thịnh Đường"
Vì vậy, có thể
tìm thấy thơ Đường trong phong trào thơ mới (1932-9945), trong thi nhân VN (của
Hoài Thanh).
Xưa nay
"Tao nhân mặc khách". Nếu quý vị đọc "Văn Đàn bữu giám" hay
"Giai thoại làng nho" của Việt Nam thì qúy vị sẽ tìm thấy không thiếu gì những bài thơ tuyệt vời và âm
hưởng tràn đầy thú vị. Thơ đi vào lòng người, tùy tâm, tùy tính, tùy cảnh, ảnh
hưởng cả không gian lẫn thời gian để cảm nhận bài thơ thấm thúy vào tâm khảm.
Thơ không
bao giờ thiếu, tâm không bao giờ thừa. Tâm đầy thì thơ thánh thót, âm điệu bao
la và thoát ra khỏi cái dung tục của cuộc đời đầy ô trọc.
LÊ HOÀNG