Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Monday, March 11, 2013

Tản mạn về THƠ ĐƯỜNG - Lê Hoàng



                                                                            
       Thơ bắt nguổn từ cuộc sống, tâm hồn của con người và sự làm việc hằng ngày."Thơ" có rất nhiều dạng thơ như: Song thất, lục bát, thất ngôn tứ cú, thất ngôn bát cú, thể văn biến ngẫu v.v. Ngoài ra ca trù cũng có thể gọi là biến thể của thơ mà ra. Rồi thỉnh thoảng vẫn có những câu tạp đối, nó cũng là hình thức  biến dạng từ thơ mà ra. Ngoài những dạng thơ như trên, có một loại thơ nổi tiếng và rất thịnh hành từ trước đến nay, mặc dù lớp trẻ lớn lên hầu như ít để ý đến hoặc không hề biết tới. Đó là thơ ĐƯỜNG.

  Tôi có "thằng" cháu nội 18 tuổi đang đi học. Nó sinh ra và lớn lên ở Mỹ, cũng biết đọc, viết chữ Việt "chút chút". Một hôm, nó thấy tôi đọc tập thơ "Hoa Vông Vang" của Đổ Tốn. Nó hỏi tôi: "Ông nội đọc gì vậy? Tôi trả lời: "Ông đang đọc thơ Đường.” Nó ngạc nhiên và không hiểu thơ Đường là gì? Nó còn hỏi rằng có phaỉ thơ đó "ngọt" lắm  không. Tôi cười không trả lời. Sau đó, tôi gọi nó  đến và giải thích: "Thơ Đường là một thể thơ xuất phát từ đời nhà Đường bên Trung Hoa. Sau này cháu có cơ hội học hỏi sẽ hiểu.”

      Quan niệm về thơ của Nho Gia: "Tại Tâm vi chí. Phát ngôn vi thi. Thi ngôn chi”. Khổng Tử nói về Kinh Thi, đó là tập thơ cổ nhất được truyền lại. Thơ là cảm xúc chân thật, phát khởi từ lòng người (Lê Qúy Đôn).Tập thơ Ly Tao có một ảnh hưởng rất lớn trong làng thơ ở Trung Hoa và cả Việt Nam.
      Tại sao thơ ĐƯỜNG hưng thịnh ?
 Phải nói rằng xã hội đời Đường khá ổn định, tư tưởng cởi mở (theo lối quân chủ chuyên chế).Tam giáo đồng nguyên. Văn hóa phồn thịnh, hội họa, kiến trúc, điêu khắc, âm nhạc, thư pháp v.v. được giao lưu với khối A Rập, Ấn Độ.
     Cái cá thể, trong triết học nhân sinh Nho, Đạo, Phật được tôn trọng. Mỗi cộng đồng lẫn cá thể được tự do nói lên nỗi niềm tâm sự cá nhân hay tập thể của mình.
          -Thi là họa có lời.
          -Họa là thơ không lời.
          -Nhạc là chuyên chở ý của thơ và họa.
  Nguyên tắc cấu tạo thơ, ý, nhạc, họa v.v... là cấu tạo hình tượng thanh, biểu tượng của thơ, thi và ca.
     Tìm hiểu nguyên tắc câu tứ của thơ ĐƯỜNG  phải đi từ tâm thức truyền thống của người Trung Hoa. Họ cho rằng thơ là một "tôn giáo" (Lâm Ngữ Đường).
     Thơ đường cô đọng súc tích, giàu tính biểu tượng. Không chỉ do các thủ pháp nghệ thuật truyền thống tạo nên mà còn do một số nguyên tắc, biểu hiện, "thi luật" được coi trọng.
     Kinh Thi có thể nói là cội nguồn của thơ Trung Hoa. Thơ Trung Hoa đã có một quá trình chừng 2500 năm chưa hề dứt đoạn. Khỗng Tử đã dùng tập thơ này để dạy học trò. Khổng Tử nói: "Thơ có thể làm phấn khởi lòng người, giúp quan sát phong tục, hòa hợp với mọi người, có thể bày tỏ nỗi sầu oán, gần thì thờ cha, xa thì thờ vua, lại biết được nhiều tên chim muông, cây cỏ".
   {Thi khả dĩ hưng, khả dĩ quan, khả dĩ quần, khả dĩ oán, nhĩ chi sự phụ, viễn chi sự quân, đa thức ủ điểu, thú thảo mộc chi danh}
    Nhận xét này nhằm vào tập Kinh Thi, nhưng cũng khởi đầu cho một quan niệm truyền thống về thơ của người Trung Hoa.
    Ở đây, có sự tương hợp giữa yêu cầu sự rung cảm nghệ thuật của cảm hứng, đạo đức và của cả ý thức  về trách nhiệm xã hội.   
     Từ Kinh Thi (TCN) đến Đường Thi (SCN), thơ ca đã trải qua một quá trình hàng chục thế kỷ để định hình về mặt thi pháp. Đến đời Hán (TCN) và (SCN), triều đình đã có sáng kiến lập ra Nhạc Phủ để sưu tầm thơ, ca dao dân ca v.v. nên chúng ta có được thêm sự nối tiếp truyền thống Kinh Thi. Sang đời Ngụy (SCN), ba cha con Tào Tháo , Tào Thực, Tào Phi với những vần thơ cứng cỏi, giàu chí khí, đã tạo nên một thời văn học Kiến An.
      Đến đời Đường, thơ ca cổ điển Trung Hoa đã bước lên đỉnh vinh quang. Thời Đường là thời đại hoàng kim của thơ ca với hơn 50.000 ngàn bài thơ của 2.300 thi nhân, Thơ Đường là tập đại thơ của thơ ca cổ điển. Đời Đường chia ra nhiều thời kỳ :
     -Sơ Đường(618-713).Tuy chưa xuất hiện đông đảo nhà thơ nhưng thơ của Vương Bột, Lạc Tân Vương, Dương Quýnh v.v. vẫn là những nhà thơ nổi tiếng được đời người sau nâng niu ưa chuộng.
    -Thịnh Đường (713-766). Thời này đã xuất hiện nhiều thi nhân nổi tiếng, không chỉ giàu số lượng, mà còn sung mãn về chất lượng. Với Thi Tiên Lý Bạch, Thi thánh Đổ Phủ, Thi Phật Vương Duy... là những người đã bước lên đỉnh cao danh vọng về thi ca.
     Lý Bạch với 2 câu :
            "Hứng lên bút, vung rung ngũ nhạc,
            "Thơ thành át sóng biển khơi".
    Ngoài ba vị ấy còn có Vương Xương Linh, Cao Thích, Sầm Tham, Mạnh Hạo Nhiên v.v.
         Bước sang thời kỳ 60 năm của Trung Đường. Có một số nhà thơ xoay "thời cuộc" dưới ngọn cờ :"Vị quân, vị dân nhi trước" của Bạch Cư Dị, tiếp nối ý tứ của Đổ Phủ. Nhưng thực ra thơ của ông chỉ nói đến những điều trái ngược "Duy ca dân sinh bệnh" đã định sẵn của ông. Bài "Tỳ bà hành" rất quen thuộc với người Việt Nam, qua bản dịch đầy tâm huyết của Phan Huy Thực, là một ví dụ tiêu biểu. Ngoài Bạch Cư Dị, Trung Đường còn có : Vi Ứng Vật, Lý Đoan, Liễu Tông Nguyên, Lưu Vũ Tích ... cũng là những nhà thơ được người đời truyền tụng.
         Cuối Đường với 70 năm giai đoạn thơ  ca vãn Đường, bên cạnh những nhà thơ cảm thương uỷ mị như: Lý Thương Ẩn , Đổ Mục ... với hàng loạt nhà thơ: Bì Nhật Hưu, Nhiếp Di Trung, Đổ Tuân Hạc ... kiên trì xu hướng: Tân Nhạc Phủ.
      Sang Tống (960-1278), tuy thơ không bằng Đường nhưng cũng xuất hiện một biến thể mới của thơ đó là:TỪ. Đời Đường, Ngũ Đại các thi nhân có thói quen sáng tác lời thơ đưa cho kỹ nữ hát (Lý Bạch). Các bài thơ ấy phải viết theo quy định một nhạc phổ nhất định.Từ, là thơ viết theo một nhạc phổ quy định của làn điệu âm nhạc, người ta gọi là điển Từ khác với Tác. Đời Tống thịnh về Từ, nhưng ít thành tựu. Người ta không tìm thấy cái mông lung huyền ảo của thơ Đường trong thơ Tống, cũng không tìm thấy thơ về tình yêu trai gái sôi nổi trong thơ Tống. Nhưng thơ Tống có những thi nhân nổi tiếng cả về Từ và Thơ như: Tô Đông Pha, Lục Du. Tô Đông Pha là một vị quan nổi tiếng vì dân, mà cũng là một nhà thơ nối tiếp Bạch Cư Dị. Bài "Lệ chi thán" là một ví dụ. Còn  Lục Du thì đời quá lận đận, tuy nhiên ông vẫn sáng tác rất nhiều bài thơ hay, có một số lượng kỷ lục. Bài "Thi nhi" rất nổi tiếng.
       Nhà thơ Lý Bạch đôi lúc cảm thấy cô đơn da diết khi bị ruồng bỏ nhưng ông vẫn tin tưởng "Thiên sinh ngã tài tất hữu dụng". Tất cả những trạng thái tâm hồn đó có liên quan đến tư tưởng triết học truyền thống của người Trung Hoa.
      Thơ Đường, thơ của thời kỳ "Tam giáo đồng nguyên", thấm nhuần cả ba cảm hứng Nho, Đạo, Phật.
      Lý Bạch rõ ràng chịu ảnh hưởng của tư tưởng Đạo Gia .Vương Duy là đại diện cho của nhân tố Phật và Lão.
       Bạch Cư Dị, Đổ Phủ lấy mặt tích cực của tư tưởng Nho Gia làm nền tảng. Hàn Dũ cách tân cổ văn cũng lấy tư tưởng Nho Gia làm đầu.
     Thơ cổ Trung Hoa có ảnh hưởng sâu xa đối với thơ Việt nam. Những nhà nho Việt Nam cũng đã đem Kinh Thi ra để dạy học trò. Người ta vẫn ngâm "Ly Tao của Khuất Nguyên” (mồng 5 tháng 5 AL vẫn nhớ ngày),  Đào Tiềm thì đã đi vào tiềm thức của nhiều người yêu thơ.
     Bài "Hoàng Hạc Lâu" của Thôi Hiệu có hơn chục bản dịch khác nhau. Người Việt vẫn luôn luôn mê thơ Đường, dịch thơ Đường, mượn nó để gửi gắm buồn, vui của chính mình.
     Có điều lý thú là, thơ Đường đọc theo âm Hán Việt nó lại hay hơn, đúng luật hơn, có  âm vang hơn đọc theo  âm Hán. Bởi vậy, có thể nói đến một sự tái sinh của thơ Đường qua tâm huyết của các nhà thơ Việt Nam.
      Ngô Thời Nhiệm, một thời đã nói :"Nước Việt Nam ta lấy văn hiến để dựng nước, thi ca thai nghén từ đời Lý, thịnh vượng ở đời Trần, rầm rộ ở thời Hồng Đức triều Lê. Một bộ "Toàn Việt thi lục" về cổ thể thi không chịu nhường thi ca đời Đường, Tống, Nguyên, Minh. v.v. Thi ca Việt Nam vẫn nhả ngọc phun châu vậy
      Thật đúng là "Thi ca chi bang". Vượt qua bến bờ của Trình Hạo, Chu Huy, lên trên cả Khuất Nguyên, Tống Ngọc, đi vào cung thất Y Doãn, Chu Hán và ra khỏi con đường của Lý Bạch, Đổ Phủ.
         "Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán
         "Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường"
     Vì vậy, có thể tìm thấy thơ Đường trong phong trào thơ mới (1932-9945), trong thi nhân VN (của Hoài Thanh).
   
        Xưa nay "Tao nhân mặc khách". Nếu quý vị đọc "Văn Đàn bữu giám" hay "Giai thoại làng nho" của Việt Nam thì qúy vị sẽ tìm thấy  không thiếu gì những bài thơ tuyệt vời và âm hưởng tràn đầy thú vị. Thơ đi vào lòng người, tùy tâm, tùy tính, tùy cảnh, ảnh hưởng cả không gian lẫn thời gian để cảm nhận bài thơ thấm thúy vào tâm khảm.
            Thơ không bao giờ thiếu, tâm không bao giờ thừa. Tâm đầy thì thơ thánh thót, âm điệu bao la và thoát ra khỏi cái dung tục của cuộc đời đầy  ô trọc.
                                                        
LÊ  HOÀNG


READ MORE - Tản mạn về THƠ ĐƯỜNG - Lê Hoàng

XUÂN NGUYỆN CẦU - Nguyễn Thanh Bá

Thế Lộc và Nguyễn Thanh Bá


Mùa xuân tươi tắn nở muôn hoa
Tô thắm thôn trang, đẹp cửa nhà
Ríu rít chim chuyền hàng liễu biếc
Nhởn nhơ trẻ nhảy gốc thông già
Âm vang trầm bổng lời kinh nguyện
Đồng vọng du dương bài thánh ca
Cầu Chúa ban nhiều ơn phước lộc
Cho toàn nhân thế sống an hoà!

            Nguyễn Thanh Bá
READ MORE - XUÂN NGUYỆN CẦU - Nguyễn Thanh Bá

ANH EM QUẢNG TRỊ GẶP NHAU TẠI SÀI GÒN - Đinh Thanh Hải


Anh em Quảng Trị tại quán Rất Huế, Sài Gòn


Đang ngồi dự đám cưới thì điện thoại reo lên, bên kia là của nhà văn Nguyễn Đặng Mừng, anh báo là có anh Nguyễn Đức Tùng đang ngồi ở Rất Huế, em thu xếp ghé Rất Huế để anh em gặp nhau tý nhé ... Tôi nói sẽ cố gắng ghé, vì đang ngồi ở tiệc cưới.

Tôi được biết anh qua nhà văn Nguyễn Đặng Mừng, anh là một vị bác sĩ ở Canada - anh không những là một bác sĩ giỏi bên cạnh đó anh còn là một nhà văn, nhà phê bình văn học ... trước tết anh Mừng có tặng tôi cuốn sách "Thơ Đến Từ Đâu" được nhà xuất bản Lao Động in ấn. Cuốn sách đã  được sự đón nhận và phản hồi rất nhiều qua những bài viết của nhiều tác giả văn học, thơ ca trong  và ngoài nước. Tôi đã tặng lại cho ba tôi đọc, cuốn sách đã được chuyền tay ba tôi để đọc, giờ đây ở Khe Sanh, mỗi lần bạn bè của ba tôi gặp nhau họ đều nói về cuốn sách của anh Nguyễn Đức Tùng "Thơ Đến Từ Đâu" ... Cuốn sách hơi sờn cũ vì đã chuyền qua rất nhiều đôi bàn tay mê đọc sách. Hôm nay tôi có kể cho anh Nguyễn Đức Tùng điều này, anh rất xúc động và cảm ơn mọi người đã yêu quý cuốn sách của mình.

Gặp anh trong một đêm tình cờ mà rất vui, anh đã tặng cho chúng tôi cuốn Thơ Đến Từ ĐâuĐối Thoại Văn Chương, cùng cuốn báo Nghệ Thuật Mới - phụ trương của báo người Hà Nội, Hội liên hiệp VHNT Hà Nội ... cuốn báo dành hai trang để nói về anh Nguyễn Đức Tùng. Trong đó có bài của anh Thơ Mới cần những phẩm chất gì? Anh có viết "Để trả lời, cần phải hỏi câu này trước đã: sự cần thiết của thơ mới? Nó sinh ra để làm gì? Nhìn quanh có ai cần nó đâu? Bạn hỏi là vì: hình như thiên hạ thời nay vẫn có thể yêu nhau bằng thơ Nguyễn Tất Nhiên, nhớ nhau bằng lục bát Phạm Thiên Thư. - Có chết ai đâu? - Không ai chết cả, trừ những người đã biết đến thơ mới, lỡ yêu nó và không có nó không xong. Tôi cho rằng nhiệm vụ quan trọng nhất của thơ mới đường thời - hay là thơ cách tân, thơ đương đại, hiện đại, tân hình thức, hậu hiện đại, các tên gọi ấy tùy lúc thay đổi, có khi nghĩa tương tự nhau, có khi rất khác nhau - nhiệm vụ quan trọng là nó tạo ra một nhu cầu mới. Nhu cầu mới là nhu cầu trước đó hoàn toàn không có, cho đến khi được tạo ra bởi một người hay một nhóm người, nó trở thành một nhu cầu hiển nhiên vì sao trước đó họ không hề nghĩ tới, vốn cũng tự nhiên như ăn uống hay khí trời hay quyền bầu cử tự do. Vào những năm 1930, thơ của Thế Lữ đã xuất hiện như thể trước cái bóng hùng vĩ của thơ cổ điển, thơ Đường. Tôi là người mê phim 007. Xưa nay tôi vẫn tin rằng trong số các diễn viên đóng James Bond chỉ có Pierce Brosnan, kể tiếp Sean Connery, là đống hay hơn cả với vẻ mặt lãnh đạm, phong độ lịch lãm của chàng. Không ai thay thế được. Cho đến khi gặp Daniel Graig dữ dội, quyết liệt, mà vẫn hào hoa phong nhã, trong casino Royale, và Skyfall tiếp theo, thì tôi hiểu rằng tôi có một thần tượng mới. Nói cách khác tôi có một nhu cầu mới, nhu cầu ấy do diễn viên Craig tạo ra ... Như vậy, công việc hàng đầu của thơ hiện nay là tạo ra như cầu mới. Để làm được điều ấy nó cần một số phẩm chất. Trước hết nó phải có ý tưởng mới, suy nghĩ mới. Ai cũng biết thơ là tiếng nói của tâm hồn, là âm thanh bật lên từ các xúc cảm từ sâu xa, trong những hoàn cảnh đặc biệt hay từ xung đột nội tâm ...




 
Tôi được tặng sách và báo.



.

Những dòng chữ ký anh Nguyễn Đức Tùng tặng tôi.

Trong một lần, tôi được đọc một cái notes của nhà báo Lê Đức Dục với tựa đề: “...đất nước dài như khói một nhành hương...” Trong bài anh Lê Đức Dục có nói: “Hôm ni đọc được bài viết của thầy Nguyễn Văn Dũng về một người Quảng Trị ở Canada, anh Nguyễn Đức Tùng, thấy bài thơ “Thư gửi quê nhà” của anh Tùng có câu thơ đọc “nổi ôốc” : “...đất nước dài như khói một nhành hương...”, chỉ là dân Quảng Trị mới nghĩ ra câu thơ nớ, nhìn cái khói hương bay như chữ S mới chộ cả một trời  điêu linh của quê dà trong nớ." 



Nguyễn Đức Tùng cùng Lê Đức Dục.



Hôm nay mặc dù rất bận rộn với công việc, nhưng anh Lê Đức Dục nghe tin anh Nguyễn Đức Tùng đang ngồi ở quán Rất Huế, anh chạy vội ra gặp mặt anh Nguyễn Đức Tùng cùng anh em Quảng Trị tại Sài Gòn ... Anh Lê Đức Dục nói: Trong đời mỗi nhà thơ chỉ cần làm một bài thơ thôi, nhà văn cũng chỉ cần một tác phẩm, nhưng riêng anh Nguyễn Đức Tùng, tôi nghĩ một câu thơ thôi cũng đã đủ để đời, và nó có thể khắc lên tấm bia mộ ... đó là câu: "đất nước dài như khói một nhành hương"


Một đêm vui với người quê xa xứ, nhưng vẫn đau đáu lòng mình về quê hương đất nước.
Sài Gòn đêm 03/03/2013
Đinh Thanh Hải

dinhthanhhaisg@gmail.com


Xin chép tặng mọi người bài thơ của Nguyễn Đức Tùng:


Thư gửi quê nhà

Em có nhớ về thăm Thạch Hãn
Chiều qua đò chắc có mưa thưa
Gió sẽ thổi từ bên tả ngạn
Như lòng anh thổi mãi một tình xưa


Em có nhớ về thăm chợ Sãi
Qua chùa Tỉnh Hội nón nghiêng che
Đi ăn bánh ướt chiều mưa nhỏ
Để thấy môi ai đỏ lối về


Chiếc tráp ngày xưa chị để đâu
Những thư tình cũ có phai màu
Ngọc lan ép giữa hai bài hát
Chắc vẫn còn thơm trong đêm thâu


Anh có nhớ về thăm gác trọ
Hỏi thăm bè bạn những phương nào
Hỏi chí lớn tà dương cháy đỏ
Mộng tường vi mấy đoá rụng ngang đầu


Gõ nhịp mà ca dạ lý hương
Mười năm rồi lại mười năm trường
Những cánh cửa đêm nay vẫn thức
Đất nước dài như khói một nhành hương


Hoa trong hội theo ngày xanh biền biệt
Tình thiên thu còn một bến giang đầu
Em có nhớ mặc áo vàng như nguyệt
Đêm qua đò trăng hỏi tuổi thơ đâu

Nguyễn Đức Tùng

bachnguyen@shaw.ca




READ MORE - ANH EM QUẢNG TRỊ GẶP NHAU TẠI SÀI GÒN - Đinh Thanh Hải

VÙNG TRỜI DÃ NGOẠI - VỀ LÀNG - thơ Lê Văn Hạt


Tác giả Lê Văn Hạt (phải) và các nhà thơ Quảng Trị


VÙNG TRỜI DÃ NGOẠI
  
Ba dòng chảy của vùng quê đằm thắm
Quyện vào nhau nơi Cồn chợ mộng mơ
Ngồi nơi đây có đất trời thơ mộng
Tại mấy ngã lòng anh muốn ngỏ riêng em
Sông Ô Lâu nước trôi chảy êm đềm
Con đò nhỏ xuôi chèo bên bờ vắng
Dòng Ô Giang sóng lăn tăn thèm ngắm
Lặng lẽ dưới cầu gieo sóng vỗ liên miên
Riêng Cồn thiêng nơi gặp em tình tứ
Đón Thác Ma dòng chảy tận đầu nguồn
Ôm tích sự của bao đời sông nước
Buổi chiều vàng gió Lào ôm lữ thứ
Quyện mùi hương cố quận nhẹ nhàng vương
Tàng cây xanh không che hết ánh vàng
Tô thắm điểm giao bôi đầy hoan hĩ
Nhớ lạ thường vùng dã ngoại thân thương!

                                 LVH
                                 22/7/2012

Tác giả Lê Văn Hạt (trái) và nhà thơ Hoàng Tấn Trung


VỀ LÀNG

(Tặng các bạn CHS Nguyễn Hoàng nhân chuyến về làng chúc thọ thầy Lê Chí Phóng 25/6/2012)

Chúc thọ mừng thầy tuổi lão làng
Câu Nhi mạch sống đủ cao sang
Cồn thiêng Bút thánh lưu tình sử
Tam hiệp nước trong chảy dịu dàng
Bạn hữu mời theo vui hội mới
Thơ ca tuôn chảy tả thôn làng
Gió Lào thoang thoảng qua Cồn chợ
Dấu ấn chiều quê cứ nặng mang

Dấu ấn chiều quê vẫn nặng mang
Khi xưa quanh quẩn chốn đình làng
Ô Lâu nghe tiếng mà không tới
Văn vật bồi thêm cũng ngỡ ngàng
Thư pháp Hoàng Trung gieo điển cú
Văn Hoa thi sĩ họa lời vàng
Thác Ma hùng cứ tô thêm nét
Cảnh vật giờ như chốn địa đàng

                               Sài Gòn, 30/6/2012
                               Lê Văn Hạt

Anh Lê Văn Hạt, quê Nại Cữu, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, nguyên là Kỹ sư Canh nông, hiện ở tại TP HCM.
READ MORE - VÙNG TRỜI DÃ NGOẠI - VỀ LÀNG - thơ Lê Văn Hạt

HỒI ỨC - thơ Nguyễn Xuân Hòa


 Anh Nguyễn Xuân Hòa sinh ngày 02 tháng 9 năm 1957, quê quán xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị,  nguyên là B trưởng B.2/K3, hiện là Tổng Giám đốc Công ty CPĐT Cao su SGS - Lào. Anh là người đam mê thể thao, văn chương. Nhân kỷ niệm 35 năm ngày thành lập trường, xin giới thiệu với các bạn một bài Thơ của anh về Trường Kinh tế !




HỒI ỨC

Ba lăm năm ngoảnh lại
Ơi thành phố Hoa hồng!
Ba lăm năm xa mãi
Trong mắt mỏi mòn trông …


Nhớ những ngày xưa ấy
Gian khổ sau chiến tranh
Kinh tế phải “kê tính”
Thầy trò – tình em anh !


Bây giờ người mỗi phương
Vẫn không quên xứ Cộn
Những bữa thường cơm độn
Thao thiết đến bao ngày…


Thầy xưa tóc đã bạc
Trò nay ngoại ngũ tuần
Trường xưa giờ đổi khác
Đông giá giờ sang xuân !


Ba lăm năm trở lại
Đây thành phố Hoa hồng
Trong ta vẫn còn mãi
Những chiều bên bến sông!

               10.3.2013
         NGUYỄN XUÂN HÒA
READ MORE - HỒI ỨC - thơ Nguyễn Xuân Hòa