Nhân đọc bài “Gió đưa cành trúc la đà” của giáo sư Vũ Quốc
Thúc đăng tải trên web Dân Việt, tôi (tức Chu vương Miện, ngươì xem web) đọc đi
đọc lại trước sau bốn lần, vì thấy bài viết quá tài tình và đặc sắc, bỏ qua thì
uổng quá, bèn chép thêm một đoạn tiếp theo nối vào, trước mua vui sau làm
nghiã, và văn chương có đi, có lại, có trên, có dươí có gọi, có thưa, có trước
và có sau.
Nguyên văn bài ca dao cổ điển như sau:
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù bãi cát màn sương
Nhịp chầy Yên Thái, bóng gương Tây Hồ.
Bài này giáo sư Vũ quốc Thúc đã diễn giảng rất rõ ràng,
chúng tôi không làm công việc nhắc lại dài dòng và mất thì giờ cuả các bạn
đọc? Đến đời nhà Trần thì:
Ta đi theo bước chinh nhân
Ta theo công chuá Huyền Trân ta lên đường
(Con Đường Cái Quan cuả Phạm Duy)
Nên cũng không lạ gì sau đó hai câu thơ trên đựợc chuyển
thành như sau:
Gió đưa cành trúc la đà
Hôì chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Cương.
Câu ca dao từ thành
Đại La Thăng Long cũ đã khăn goí địu gạo lên đường đi hàng ngàn dậm vơí đoàn
quân nhà Trần đến đất Châu Ô Châu Rí cuả
đất nước Chăm Pa để trở thành Hoá Châu
và Thuận Châu … ngày nay? Trên bẩy trăm năm sau, trong một bài Phiếm
Luận ở Hải Ngoại chỉ được giáo sư Vũ Quốc Thúc nhắc tới là ở trên intenet chứ
không biết web Văn Học nào? Tác giả, học giả là ai? Hai câu trên cuả câu ca dao
được diễn giải ra theo nghiã đương đại như vầy:
Roi tre vun vút vung ra
Lũ Lạc Đà vơí lũ La chạy cuồng
Vợ Trơì giáng một hôì chuông
Gọi về ăn bát canh xương gà Tàu.
Phần này cũng đã đựợc giáo sư Vũ Quốc Thúc giảng rất kỹ và
rất rõ, không nhắc lại làm gì nưã. Cũng gần 10 năm nay, tôi rất quan tâm về bốn
chữ “canh gà Thọ Xương” được một vị tiến sĩ nguyên giáo sư Đại Học và kiêm học
giả dịch giả Việt Nam đã dịch ra tiếng Anh là
“chicken soup”! Và cũng đã được quá nhiều báo chí cùng dư luận bàn
thảo, chuyện đúng hay sai cũng đã theo thơì gian trên mười năm mà nhoà nhạt,
nhưng tôi thì lại không quên, nhân tiện có bài đưa duyên “Gió đưa cành trúc la
đà” cuả giáo sư Vũ Quốc Thúc nên tôi dành một ít thì giờ viết bài này góp vui,
góp tiếng vơí bà con nội ngoại trong và ngoài nước đọc cho vui, cho đỡ buồn?
*
Thực ra muốn hiểu ‘một chữ’ đôi khi cũng rất là mất thì giờ?
Trước khi đi vào phần tìm hiểu nghiã chính cuả “Canh Gà Thọ Xương” chúng tôi
xin được phép lung khởi mời quí vị độc giả du lịch tưởng tượng theo tôi qua bên
Tàu, là nước có hình thể giống con gà, và có diện tích lớn nhất thế giới, dân
tộc chính là ngươì Hán. Thời Đông Châu cách đây trên 3000 năm gồm cả thẩy ngàn
quốc gia, cách đây 2500 năm chỉ còn bẩy quốc gia (thêm Sở Ngô Việt) là 10 quốc
gia tự trị. Trước Công Nguyên 200 năm, nhà Tần thống nhất đất nước lại làm một
mối, nhưng con ngươì thì ngoài những sắc dân chính như Hán, Mông, Hồi,Tạng, còn
cả trăm dân tộc thiểu số khác như Miêu,
Liêu, Bách Việt ….. nưã, dù 3000 năm trôi qua, vẫn còn tiếng noí vùng này khác
vùng kia? Chữ nghiã vẫn còn trong tình trạng chưa ổn định ….
Bây giờ xin đan cử chữ “Ngưu”. Ngươì Hán Tộc định cư ở điạ bàn vùng Hoa Bắc, toàn đồi và đất khô ráo, trồng toàn là ngô, khoai, luá mì, luá mạch, cao lương và bo bo, nên ngoài sức ngươì thì còn dùng một loại thú vật thuần dưỡng da mầu vàng để kéo cày kéo bừa nên được goị là hoàng ngưu, nhưng thơì gian về sau, ngươì Hán tộc sinh sôi nẩy nở ra nhiều và mang quân đi xâm lăng về phương Nam vùng Hoa Hạ là một phần đất cuả ngươì Bách Việt. Ngươì Bách Việt văn minh hơn ngươì Hán tộc đã biết trồng lúa nước, nhưng vì dân số ít, bị thua và bị ngươì Hán tộc đẩy lui về vùng Hoa Nam, vùng đất có nước, nên cày bưà cực hơn vất vả hơn, phải dùng một loại thú lớn hơn Hoàng Ngưu một chút, và mầu da mầu đen, gọi là Thuỷ Ngưu (có địạ phương khác goị là Thanh Ngưu). Thuỷ và Thanh không có nghiã là Nước hay mầu Xanh, vì tiếng có sẵn đã đựợc goị như vậy, nên người Hán dùng luôn cho tiện sổ sách, về sau ngươì Bách Việt có một bộ phận di chuyển về phương Nam lập ra nước Việt Nam, mơí goị con da vàng cày trên đất khô là con Bò, con to hơn cày dươí nước da mầu đen là con Trâu, chớ vơí ngườì Hán thì đều là Ngưu cả.
Cũng xin noí thêm ba con sông cùng phát nguyên vùng Thanh Tạng, từ dẫy nuí Thiên Sơn, ngay chỗ phát nguyên chẩy theo chiều Bắc Nam qua Na Sa, qua Cẩm Hồng đến tỉnh Vân Nam thì gọi là Lan Thương Giang, đến điạ đầu Miến Điện, Lão Qua thì đổi thành Mê Kông, qua Miên Thái chẩy vào Nam Việt thì đổi thành Cưủ Long. Hoàng Hà mơí đầu chẩy theo chiều Bắc Nam, qua Cam Túc thì chuyển thành Đông Tây, chẩy xuyên qua Hà Bắc, Hà Nam, giưã Hoa Bắc và Hoa Hạ nên ngườì Hán gọi sông là Hà, còn Dương Tử Giang thì chẩy theo chiều Đông Tây qua tỉnh Hồ Bắc, Hồ Nam, biên giới giữa hai vùng Hoa Hạ và Hoa Nam, vì thuộc đất cuả ngươì Bách Việt nên sông goị là Giang (và ngươì Hán cũng vẫn giữ y như vậy để khi nào ngươì Bách Việt đoì thì trả lại).
Bây giờ xin đan cử chữ “Ngưu”. Ngươì Hán Tộc định cư ở điạ bàn vùng Hoa Bắc, toàn đồi và đất khô ráo, trồng toàn là ngô, khoai, luá mì, luá mạch, cao lương và bo bo, nên ngoài sức ngươì thì còn dùng một loại thú vật thuần dưỡng da mầu vàng để kéo cày kéo bừa nên được goị là hoàng ngưu, nhưng thơì gian về sau, ngươì Hán tộc sinh sôi nẩy nở ra nhiều và mang quân đi xâm lăng về phương Nam vùng Hoa Hạ là một phần đất cuả ngươì Bách Việt. Ngươì Bách Việt văn minh hơn ngươì Hán tộc đã biết trồng lúa nước, nhưng vì dân số ít, bị thua và bị ngươì Hán tộc đẩy lui về vùng Hoa Nam, vùng đất có nước, nên cày bưà cực hơn vất vả hơn, phải dùng một loại thú lớn hơn Hoàng Ngưu một chút, và mầu da mầu đen, gọi là Thuỷ Ngưu (có địạ phương khác goị là Thanh Ngưu). Thuỷ và Thanh không có nghiã là Nước hay mầu Xanh, vì tiếng có sẵn đã đựợc goị như vậy, nên người Hán dùng luôn cho tiện sổ sách, về sau ngươì Bách Việt có một bộ phận di chuyển về phương Nam lập ra nước Việt Nam, mơí goị con da vàng cày trên đất khô là con Bò, con to hơn cày dươí nước da mầu đen là con Trâu, chớ vơí ngườì Hán thì đều là Ngưu cả.
Cũng xin noí thêm ba con sông cùng phát nguyên vùng Thanh Tạng, từ dẫy nuí Thiên Sơn, ngay chỗ phát nguyên chẩy theo chiều Bắc Nam qua Na Sa, qua Cẩm Hồng đến tỉnh Vân Nam thì gọi là Lan Thương Giang, đến điạ đầu Miến Điện, Lão Qua thì đổi thành Mê Kông, qua Miên Thái chẩy vào Nam Việt thì đổi thành Cưủ Long. Hoàng Hà mơí đầu chẩy theo chiều Bắc Nam, qua Cam Túc thì chuyển thành Đông Tây, chẩy xuyên qua Hà Bắc, Hà Nam, giưã Hoa Bắc và Hoa Hạ nên ngườì Hán gọi sông là Hà, còn Dương Tử Giang thì chẩy theo chiều Đông Tây qua tỉnh Hồ Bắc, Hồ Nam, biên giới giữa hai vùng Hoa Hạ và Hoa Nam, vì thuộc đất cuả ngươì Bách Việt nên sông goị là Giang (và ngươì Hán cũng vẫn giữ y như vậy để khi nào ngươì Bách Việt đoì thì trả lại).
*
Bây giờ xin trở lại vấn đề “Cành trúc la đà”, theo cá nhân
tôi được biết giản dị là có nhiều thành phố lớn hoặc nhỏ trên thế giới, cụ thể
là Mỹ đi cho nó dễ, có khu phố goị là phồ Tàu (China town), phố Đại Hàn, phố
Nhạt Bản, và Phố Việt Nam (Little Sài Gòn). Tỉnh Hà Nội, thành phố Hà Nội, thủ
đô Cố đô Hà Nội có một nét đặc thù là gồm có ba mươi sáu phố phưòng, mỗi một
phố có nét riêng và đặc biệt buôn bán thì mỗi một phố chỉ buôn và bán một món
đặc sản cuả mình mà thôi (tính tới thơì điểm 1954) sau thơì điểm này thì không
biết. Ví dụ ngừơì Tàu noí:
Đi từ phố hàng Pồ (Bồ) qua phố hàng Pạc (Bạc) rồi vòng về
phố hàng Puồm (Buồm), âm Tàu B thành ra P. Phố hàng Khay bán khay, chén điã
bát; phố hàng Bông bán bông, vải vóc; phố hàng Hòm bán quan tài; phố hàng Than
bán than bán củỉ … Ngoài ra, những làng thôn ấp chung quanh thủ đô thì tương
đối cũng có phần na ná như vậy, như làng Yên Thái thì chuyên là nghề giấy, lúc
nào cũng nghe tiếng chầy giã bột giấy, làng Cổ Nhuế theo trong tác phẩm cuả đại
văn hào Hồ Hưũ Tường Phi Lạc Sang Tàu thì tuyệt đại đa số dân chúng sống nhờ
bằng cài nghề gắp phân, phân ngoài đường, có làng chuyên trồng hoa đào, hoa
mai, hoa cúc bán tết, có làng chuyên nhuộm vải, có làng như làng Vòng chuyên
làm cốm, thụt luì xuống phiá Hải Dương như Cẩm Giàng chuyên là bánh đậu xanh,
bánh khảo (Bảo Hiên Rồng Vàng); ở Ninh Giang thì chuyên bánh gai …
*
Đêm năm canh, ngày sáu khắc, canh một bắt đầu vào khoảng sáu
bẩy giờ tối, thơì gian có khi bắt đầu là sáu giờ, nhưng có khi lại đổi thành
bẩy giờ, tuỳ theo lịch, giờ Tý canh ba là khoảng từ 11 đến 1 giờ đêm, đêm chia
ra làm 5 canh.
Canh một dọn cưả dọn nhà
Canh hai dệt cửi, canh ba thêu thuà …..
Một ngươì dân thường một đêm chỉ ngủ có ba canh (là canh ba,
canh tư và canh năm). Từ 11 giờ cho tới năm giờ sáng, trong làng xã có đặt điếm
canh để tuần đinh canh gác an ninh trộm cắp, thường thì tập trung ít nhất là ba
ngươì, nhiều thì năm ngươì, trong làng xã có chuyện gì xẩy ra thì đáng trống
Ngũ Liên (thường là 5 tiếng) thùng thùng – thùng – thùng thùng. Điệu trống này
nôm na là trống Gọi, và cứ mỗi một canh 2 giờ thì thay phiên gác, cùng đáng
trống sang canh. Canh 1 thì đánh 1 duì trống, canh 2 đánh hai dùi … Còn ngày
thì sáu khắc bà con cô bác tự automatic hiểu chớ không ai đánh trống đánh kèn gì cả? Trường hợp con gà thì cứ rạng
đông, sau năm sáu giờ sáng hé ánh mặt trời thì con gà gáy, một hoặc hai ba lần
rồi thôi (đi ăn thóc lúa) chớ không có ở không mà gáy mãi ? Noí canh gà là cách
noí văn chương cho no huê dạng, cho nó mỹ từ pháp, dù rằng ban trưa, ban chiều
cũng đôi khi có tiếng gà gáy? Nhưng noí là canh thì không đúng (không chính
xác) vì canh là cố định, nghe tiếng trống hay nghe tiếng gáy thì bà con dân quê
biết là mấy giờ, chớ xuân thu nhị kỳ, gáy tào lao, gáy để ve gái, hoặc gáy để
khiêu khích gà khác đá chơi ? thì tuỳ hứng?
Có thể hiểu như một khách ngoại quốc đến du lịch xứ mình,
ngươì hướng dẫn là một ngươì trẻ tuổi, lịch lãm dẫn du khách đi chơi, thơì gian
có thể là chín mươì giờ sáng, đi qua mấy con đường đê, đường làng, nơi hồ Tây, hồ Bẩy mẫu ... gió
thổi, lá trúc phất phơ la đà trên mặt sông, trên mặt hồ, rồi hồi chuông ngân
nga từ chuà Trấn Võ thả rơi từng tiếng, thư thái lòng ngươì, ngươì hướng dẫn du
lịch bèn nhập đề:
Đây là làng Thọ Xương, chuyên nuôi gà đẻ, ấp trứng, bán
trứng, bán gà mai dầu, gà mái tơ, gà con …. đặc biệt là có mấy quán phở gà dai,
quán cháo gà đi bộ, và tuyệt chiêu đặc sản là canh miến gà (goị tắt là canh
gà), ăn một bát thì đòi ăn hai bát, ăn một lần thì nhớ đời.
Đây là ý nghĩ khôi hài cuả cá nhân ngươì viết cho vui mà
thôi. Kính mong trong các vị trưởng thượng độc giả, có vị nào nguyên quán ở
làng Thọ Xương, Thọ Cương (chính gốc Bà
Lang Trọc Hà Nội) xin lên tiếng mau mau không thì làng Thọ Xương cũng đi theo
làng Khán Xuân cuả cụ bà Đại thi hào Hồ xuân Hương chìm xuống đáy Hồ Tây mất
tích. Và để cho đầy đủ bài viết này sợ quí vị hiểu lầm, kinh xin qui vị xin mở
web: lieutiensinh.org để đọc bài “Gió đưa cành trúc la đà” cuả giáo sư Vũ Quốc
Thúc, và có vị tiền bối trưởng thượng nào ở không (không bận chuyện cơm áo
cho lắm) xin viết thêm bổ sung vào bài
này cho rõ ràng để mai hậu đọc thưởng lãm thì quí lắm.
Chu Vương Miện