Ngô Trọng Hùng
Dưới
ánh nắng những buổi trưa hè, phản chiếu bãi cát vàng óng ánh, dọc theo bờ sông
Thạch Hãn chừng vài trăm mét, nối liền lũy tre xanh ngắt, hun hút kéo dài như
vô tận. Đó là bến đò làng tôi. Sau ngày hòa bình lặp lại, thay vào đó chiếc cầu
đúc hiện đại, thuận tiện cho sự lưu thông của dân làng và nhiều vùng lân cận.Thật
đáng mừng cho quê hương đổi mới.Thế mà mỗi lần có dịp về quê, ngang qua cầu,
tôi không sao quên được hình bóng ông chèo đò trên bến sông xưa.
Khoảng
ngoài bốn mươi tuổi, dáng người gầy nhưng mà chắc chắn trong bộ đồ màu đen cụt,
với chiếc nón xác xơ vừa đủ che mái tóc bù tung trên khuôn mặt dạn dày sương
gió, thế mà ông vẫn giữ nụ cười bao dung giữa dòng đời trôi nổi. Vào buổi sáng,
nương theo tiếng gà, ông thức dậy thật sớm. Cơm nước xong, châm điếu thuốc lá,
ôm mái chèo trở lại bến và một số quai chèo mà chiều hôm trước, sau giờ làm việc,
ông đã chống sào, neo đò, gỡ mái đem về. Có lẽ người chèo đò sợ mất mái chèo
hơn chiếc đò. Suy cho cùng họ có lý! Cũng như cậu học trò sợ mất bút mực hơn tập
vở. Buộc mái chèo vào con đò ổn định, ông múc nước rửa đò, lau chùi sạch sẽ, sắp
lại những chiếc ván ở lòng đò ngay ngắn. Mọi việc vừa xong thì khách qua sông
cũng vừa có mặt.
Khách
phần đông là những phụ nữ.Thời buổi chiến tranh, những thanh niên đều phải ra
chiến trường. Những nặng nhọc trên đời đều dồn hết trên đôi vai người phụ nữ.
Cứ
vào mỗi sáng, họ phải thức dậy rất sớm theo tiếng gà bằng tập quán của dân quê.
Cả làng hiếm hoi lắm, một vài người mới có đồng hồ đeo tay. Họ thức dậy lo cơm
nước. Dùng cái mo cau gói ép cơm thật chặt, thức ăn hoặc muối ớt, hoặc cá khô
gói bằng lá chuối chung với cơm và một trái bầu eo khô dùng đựng nước. Một đòn
gánh, hai đầu nhọn hay còn gọi là đòn xóc. Mo cơm và cái rựa cột đầu này, ở đầu
kia là bầu nước. Thế là họ lên đường, từng đoàn năm bảy người. Hết đợt này đến
đợt khác qua sông, hướng về dãy Trường Sơn thăm thẳm một màu sương.Thế mà họ vẫn
nói cười vui vẻ, vừa đi vừa kể cho nhau nghe chuyện núi rừng nguy hiểm. Nào là
ong vò vẽ đốt sưng cả mặt mày, có người bị trăn cuốn, cọp vồ mất xác! Có khi
khát nước khô cả cổ họng, họ phải lặn lội tìm kiếm, cách chỗ làm năm ba dặm. Những
nơi có nước lại là những nơi đầy nguy hiểm vì dã thú thường sống ở những nơi
ấy. Thế mà họ vẫn vô tư, lấy nước xong còn lặn lội tìm những trái móc, trái
sim… gói vào chiếc khăn tay mang về làm quà cho con. Thỉnh thoảng vẫn có những
sự cố xảy ra, một vài người đi không trở lại, từng đêm về dang dở tiếng gà
khuya.
Chiều
gần tối, mỗi người một gánh, nặng trĩu nỗi lo âu. Mặt mày hốc hác, mái tóc bù
tung. Cất tiếng gọi đò… mong được về sớm, còn lo cho mẹ già, con dại, đâu kể gì
đến nhan sắc tàn phai của người phụ nữ trong thời buổi loạn ly.
Thuở trời đất nổi
cơn gió bụi
Khách má hồng lắm
nỗi truân chuyên.
(C P N)
Đến
giờ ông chèo đò vất vả vì ai cũng muốn được về sớm lo cơm cháo cho mẹ già, tắm
rửa cho con dại, sắp đặt chuyện gia đình.Trời càng lúc càng tối, khách qua đò mỗi
lúc mỗi đông. Một người thêm gánh củi thành hai người. Bác đò hết sức vất vả, cẩn
thận sắp xếp vừa đủ trọng tải, vừa cân đối để tránh sự cố xảy ra. Đó là điều
không phải ai cũng làm được, nếu không phải là người có nhiều kinh nghiệm tử
sinh trên sông nước qua nhiều năm.
Thời
bấy giờ tôi chẳng nhớ mình được bao nhiêu tuổi, chỉ nhớ còn theo học trường
làng. Một ngôi trường tùy tiện, nói thì trường nhưng thực tế là một ngôi đền
làng, dùng làm trụ sở hội họp vào ban đêm, vừa dùng cho lũ trẻ chúng tôi theo học
vào ban ngày. Một lớp học trình độ và tuổi tác không đồng đều.Thầy rất khổ sở. Sau
khi vào lớp, thầy viết chữ cái cho các em học vỡ lòng, ra toán cộng, trừ cho
trình độ cao, rồi đọc chính tả cho các em lớn. Nói đúng hơn một phòng học cùng
rất nhiều lớp, thế mà im lặng phăng phắc ai lo việc đó.
Sau
giờ bãi học, chúng tôi có mặt tại bến đò, xếp gọn tập vở và bút mực, cởi đồ phủ
lên trên, rồi lấy cục đá dằn lên áo quần để gió khỏi phải thổi bay. Vậy là yên
tâm ùa ra sông hụp lặn và tạt nước vào nhau, thật vô tư, thú vị.
Bác
chèo đò rất quan tâm đến chúng tôi.Vào buổi trưa vắng khách, bác cùng tắm và tập
chúng tôi bơi lội, hướng dẫn chúng tôi nơi nào cạn, nơi nào sâu. Nước sông Thạch
Hãn rất trong và khó lường. Nhờ sự chỉ dẫn của bác chèo đò một thời gian rất ngắn,
chúng tôi đứa nào cũng biết bơi lội, hụp
lặn như con ráy cá. Có đứa bơi qua sông bên kia ngồi nghỉ, rồi bơi về. Bác chèo
đò mỉm cười, tự hào như người thầy mãn nguyện về học trò mình thành công trên
bước đường đời.
Tôi
còn nhớ rất rõ, có lần mẹ tôi làm lễ đầy tháng và đặt tên cho đứa cháu ngoại
con chị tôi. Mẹ tôi sai tôi ra bến đò, xin một chai nước ở lòng đò và… quai
chèo, sau khi lễ xong mẹ tôi lấy quai chèo cột vào chiếc nôi, lấy nước lòng đò
tắm cho trẻ, rồi đặt nó vào chiếc nôi vừa đưa vừa hát.
Trăm năm dù lỗi
hẹn hò
Cây đa bến cũ
con đò khác đưa
Cây đa bến cũ
còn lưa
Con đò dù thác
năm xưa kia rồi
Tôi
rất thắc mắc, nhưng không hỏi vì ngại mình quá nhỏ, mà việc làm của mẹ có vẻ
linh thiêng kèm theo tiếng hát của mẹ bí mật như những câu thần chú, và ai giải
thích cho một đứa trẻ bao giờ! Chắc gì mẹ đã biết, bất quá mẹ sẽ nói “xưa bày
nay làm”. Câu chuyện ấy đã để lại trong ký ức tôi cho đến ngày khôn lớn.
Một
hôm bất ngờ gặp một trưởng lão trong làng và cũng là lúc tuổi tôi đã lớn, có
quyền được hiểu phong tục của làng và nhờ giải thích. Bác nói: “Chiếc nôi là cội
nguồn văn hóa của dân tộc, nước lòng đò là sữa mẹ, là quê hương. Quai chèo buộc
vào nôi, ý nói làm người phải có quê hương dân tộc. Cũng như “cây đa, bến cũ,
con đò: Trăm năm đời người dù có đi đâu cũng nhớ về cội nguồn dân tộc.
Thật
bất ngờ! Một câu chuyện đơn giản tưởng như mê tín nhưng hàm chứa ý nghĩa sâu xa
và nhân bản của con người đất Việt. Ta lớn lên từ chiếc nôi văn hóa của dân tộc,
qua lời ru của mẹ tiễn con đi vào đời.
Đúng
vậy, bến đò là quê hương là trường học. Con đò là mẹ, là thầy cô giáo và còn biết
bao nhiêu ân nghĩa, tình người đã dìu dắt ta ngang qua dòng đời đầy khổ lụy. Mỗi
lần có dịp về quê đi ngang qua chiếc cầu hiện đại tôi lấy làm tự hào quê hương
mình đổi mới. Đó chính là thành quả ý chí bất khuất của dân tộc mấy ngàn
năm. Nhưng vẫn không không sao quên được
những ngày gian lao. Tôi nhìn lại dòng sông quen thuộc ngậm ngùi mà lắng nghe
trong hoang liêu tiếng gọi đò trên bến sông xưa.
Ngô Trọng Hùng