THƠ MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH
Châu Thạch
Tôi đọc bài “Giấc Ngủ Của Đá” thơ Minh Đức Triều Tâm Ảnh đăng
trên trang web haibogiay.net. Minh Đức Triều Tâm Ảnh là bút hiệu của tỳ kheo Giới
Đức, một trong những người sáng lập ra chùa Huyền Không (Huế). Ngài là vị sư giỏi
văn, am tường hội hoạ, một kỳ thủ cờ tướng, một bậc tài hoa về thư pháp. Bài thơ
đem đến cho tôi cảm xúc sâu xa
Hãy đọc vế thơ
đầu tiên:
Giấc ngủ xuống
giữa triền non vắng lặng
bóng ai về lạnh buốt cả ngàn dâu
tay chạm khẽ
vào mong manh của gió
bỗng trần gian va động những cung sầu
Tất nhiên vế thơ nầy không dùng để tả cảnh. Tuy cảnh
ở đây là đêm xuống “giữa triền non vắng lặng” nhưng đêm ở đây là hình ảnh của bóng
tối trần gian và “triền non vắng lặng” là sự cô đơn của tác giả khi nhìn ra cuộc
đời. “bóng ai về lạnh buốt cả ngàn dâu” chỉ có thể là thời gian mang bóng tối về
mà thôi. Sự rung động nhạy bén trong câu thơ “tay chạm khẽ/ vào mong manh của
gió/ bỗng thời gian va chạm những cung sầu” chính là sự rung động trong tâm hồn
tác giả khi đối diện, khi tiếp xúc với thế gian nầy. Trong triết lý nhà Phật, mọi
sự “động” là ở từ tâm ta mà ra, cho nên sự “mong manh của gió” chính là hiện tượng
từ nội tâm tác giả và “trần gian va động những cung sầu” cũng là sự va động xảy
ra trong tâm hồn nhà thơ vậy.
Bảy câu thơ ở vế thơ đầu cho ta nhận biết hình ảnh
trống vắng, u buồn, mong manh và va động trùm lên trên thế gian mà thời gian đưa
đi trong bóng tối. Bởi sự vọng động trong tâm hồn, con người nhìn cảnh vật hay
nhìn cuộc đời cảm thấy cô đơn làm sao! lạc lõng, nhỏ bé làm sao trước “thời
gian va động những cung sầu!”
Ta đứng lên
gọi đò
bên bờ sông lau lách
lá tử sinh cháy đỏ cuối ghềnh xa
lòng dừng lại, nhìn thời gian huyễn hoặc
chẳng bao giờ thấy hết cõi người ta
Tiếng gọi đò là sự tìm kiếm một con đường giải thoát.
“Bờ sông lau lách” là trần gian, con sông là sự ngăn cách giữa ta và chân lý, đò
chính là đạo, là con đường đưa ta đến bờ giải thoát bên kia. Nhà thơ gọi đò
trong vô vọng. Bởi vì gọi đò mà tác giả không thấy đò đâu, lại thấy “lá tử sinh
cháy đỏ cuối ghềnh xa” nghĩa là thấy sự chết chờ ta ở cuối cuộc đời để cho “lòng
dừng lại, nhìn thời gian huyễn hoặc” nghĩa là quán được tác động của thời gian
trên mọi biến đổi của đời. Từ đó tác giả thốt lên một câu nói bi quan: “chẳng
bao giờ thấy hết cõi người ta”. Không bao giờ thấy hết cõi người ta bởi vì cõi
người ta đang nằm trong giấc ngủ triền miên mê muội, là ở trong bóng tối của đêm
đương xuống “giữa triền non vắng lặng”, “bên bờ sông lau lách”, là “lạnh buốt cả
ngàn dâu”, là ‘mong manh của gió”, là “va động những cung sầu”, là “tử sinh ở
cuối ghềnh xa”. Vế thơ cho ta thấy con đường cụt của cuộc đời. Tác giả đứng đây
bên dòng sông ngăn cách, nhìn bờ giải thoát
bên kia, biết có con đò đưa ta qua bên ấy nhưng tiếng gọi đò vọng lên
trong cô quạnh, làm va động thời gian, làm hiện thấy lá tử sinh cháy đỏ ở cuối
ghềnh xa, hay đúng hơn thấy hoảng sợ vì sự chết, sống của ngàn kiếp con người
nhiều như lá cây cháy đỏ cuối rừng.
Bởi vì đâu con đò không hiện ra? Tác giả chưa thể nào
qua sông được. Xin đọc ở vế thơ sau:
Chừ bẻ kiếm đi vào sơn cốc
chợt hôm kia
đầu đá
mọc thành hoa
nỗi vinh hiển như bóng trăng chẳng thực
giọt sương trời, rơi vỡ cánh hà sa
Rõ ràng tác giả còn mang theo bên mình cây kiếm. Chính
cây kiếm làm cho con đò không thể hiện ra. Cây kiếm là hiện thân của vũ lực, là
trở ngại khi con người còn mang nó bên thân hay mang nó trong lòng khi muốn qua
con thuyền từ ái để đến bến bờ chỉ chứa có yêu thương. May thay, tác giả đã “bẻ
cây kiếm đi vào sơn cốc” để ở đó tịnh tâm chờ con đò mà mình mong ước. Rồi thì
“chợt hôm kia/ đầu đá/ mọc thành hoa/ nỗi vinh hiển như bóng trăng chẳng thực/
giọt sương trời, rơi vỡ cánh hà sa””. Ấy là cái ngày sự kiện xảy ra trong linh
hồn tác giả. Đầu đá mọc thành hoa chỉ là
hình ảnh ánh trăng chiếu trên đá, tức thì tác giả chứng ngộ được tất cả sự vinh hiển của đời nầy chỉ là phù phiếm
mà thôi. Sự vinh hiển của trần gian kia cũng chỉ có như sự long lanh trên đầu cục
đá, nhận từ bóng trăng chẳng thực. Chính giọt sương nhỏ nhoi kía khi rơi trên đá
cũng làm cho ánh trăng nhoà đi, làm cho sự vinh hiển giả tạo rơi vỡ. Hoa sen là
biểu tượng chân lý cứu độ của đời. Theo Hán tự “hà sa’ là sen rụng. Sen là loài
hoa tượng trưng cho đạo Phật, cho sự giác ngộ phật pháp, giác ngộ được những chân
lý tốt đẹp. Ỏ đây sự vinh hiển giả tạo của hợp duyên trăng và đá bị sự nhỏ nhoi
như giọt sương làm cho vỡ nát, kéo theo cánh hoa sen rơi rụng, nghĩa là làm cho
chân lý tốt đẹp tan ra mây khói bởi sự vinh hiển giả tạo kia vấy bẩn chân tâm.
giấc ngủ xuống
giữa hoang liêu của núi
Vượn rừng sâu mê mãi cây cành
Ta hát khẽ
Vang vang bầu vọng tưởng
Trái nhân tình
Muôn thuở chẳng màu xanh!
Trong bóng đêm của trần gian khác chi trong chốn núi
rừng hoang liêu, loài người khác chi những đàn vượn từ đời nầy qua đời kia luẩn
quẩn trên cây, cành. Đến đây cái tâm nhà thơ đã ở ngoài biến động của cảnh giới,
đã vượt qua hỉ, nộ, ái, ố của tình người muôn thuở không bao giờ tốt đẹp. Đến đây
nhà thơ không còn là người lặng ngụp trong bóng đêm khổ đau đó, nên người đã bình
tâm cất tiếng hát khẽ về những điều kia, về bầu vọng tưởng, về trái nhân tình
biến sắc đã ở ngoài cõi tâm linh của mình.
Bây giờ tâm đã tịnh, hồn đã thanh, tác giả không cần
đến con đò mà vẫn qua sông:
ta chống gậy
qua sông
không bè bạn
cọng cỏ bên đường lất phất trông theo
mỗi câu thơ là mỗi trang cao sĩ
thoảng hương trầm
trong nỗi nhớ trong veo
Người đã qua sông một mình trong thanh tịnh. Cảnh bây
giờ không còn cô liêu lạnh giá nữa, cho đến cọng cỏ bên đường cũng trở nên thân
mật “lất phất trông theo”. Tác giả đã được giải thoát khổ đau, chứng nhiệm được
thơ chính là hương vị giải thoát dậy lên trong tâm hồn tác giả. Thơ bây giờ ở
trong vạn vật, thơ bao trùm không gian với hương trầm, thoảng ý nghĩa cao siêu,
với nỗi nhớ không dằn vặt, không ưu tư về quá khứ, bình tịnh trong tâm hồn được
tác giả diển tả bằng hai chữ “trong veo”. Như thế thơ chính là nguồn sáng của
chân lý mà tác giả đã chứng ngộ được. Và khi đã chứng ngộ được thơ thì dòng sông
ngăn cách đến chân lý không còn:
chừ với đá, ba đời giấc ngủ
viễn khách ơi!
viễn mộng nào đây?
phù phiếm quá,
con sông không chảy
và bờ kia,
hiển hiện bờ nầy!
Không còn dòng sông nghĩa là không còn ngăn cách giữa
hiện thực và cứu cánh, giữa ngục tù trần gian và cõi giải thoát viên mãn. Tác
giả thấy được hằng hằng kiếp kiếp đời người là viễn khách miệt mài trên con đường
viễn mộng. Con người vì u mê, suy tư không chánh niệm thì cũng giống như đầu đá
không có suy tư, cho nên thấy dòng sông phù phiếm chảy muôn đời ngăn cách ta và
chân lý. Sự thật “con sông không chảy/ và bờ kia/ hiển hiện bờ nầy”. Khi con mắt
nhìn thấy chân lý tinh tường thì nghịch cảnh, trở ngại, khổ đau tan biến. Bấy
giờ bến mê và bờ giải thoát ở cạnh bên nhau, chỉ cần “chống gậy” bước đi thì sẽ
“qua sông”.
Suốt bài thơ tác giả không dùng từ cao siêu nhưng ý
nghĩa thì sâu nhiệm triết lý thâm sâu Phật pháp.
Tiếng thơ như tiếng đàn rung động giữa trời trăng
bao la, bên sườn non vẳng lặng, cạnh dòng sông bát ngát. Đó là hình ảnh cuộc đời
được mô tả trong cái đẹp phù phiếm của trần gian. Hình ảnh người thơ “bẻ kiếm vào
sơn cốc”, “chống gậy qua sông” như bức tranh hùng vĩ của người cô đơn đi tìm chân
lý trên đời. Và “ bờ bên kia/ hiển hiện bờ bên nầy!” là niềm vui cao siêu, là bờ
giải thoát tuyệt vời cho ngàn kiếp nhân sinh trôi lăn trong vòng tối tăm ảo ảnh.
Thơ như tiếng chuông đồng vọng vào lòng người, càng nghe càng thấy an vui, êm ái, bình tịnh trong tâm hồn ./.
Châu Thạch
Giấc Ngủ Của
Đá
Minh Đức Triều Tâm Ảnh
Giấc ngủ xuống
giữa triền non vắng lặng
bóng ai về lạnh buốt cả ngàn dâu
tay chạm khẽ
vào mong manh của gió
bỗng trần gian va động những cung sầu
ta đứng lên,
gọi đò,
bên bờ sông lau lách
lá tử sinh cháy đỏ cuối ghềnh xa
lòng dừng lại, nhìn thời gian huyễn hoặc
chẳng bao giờ thấy hết cõi người ta
chừ bẻ kiếm đi vào sơn cốc
chợt hôm kia
đầu đá
mọc thành hoa
nỗi vinh hiển như bóng trăng chẳng thực
giọt sương trời, rơi vỡ cảnh hà sa
giấc ngủ xuống,
giữa hoang liêu của núi
vượn rừng sâu mê mải cây cành
ta hát khẽ,
vang vang bầu vọng tưởng
trái nhân tình
muôn thuở chằng màu xanh!
ta chống gậy,
qua sông,
không bè bạn
cọng cỏ bên đường lất phất trông theo
mỗi câu thơ là mỗi trang cao sĩ
thoảng hương trầm
trong nỗi nhớ trong veo
chừ với đá, ba đời giấc ngủ
viễn khách ơi!
viễn mộng nào đây?
phù phiếm quá,
con sông không chảy!
và bờ kia,
hiển hiện bờ này!
giữa triền non vắng lặng
bóng ai về lạnh buốt cả ngàn dâu
tay chạm khẽ
vào mong manh của gió
bỗng trần gian va động những cung sầu
ta đứng lên,
gọi đò,
bên bờ sông lau lách
lá tử sinh cháy đỏ cuối ghềnh xa
lòng dừng lại, nhìn thời gian huyễn hoặc
chẳng bao giờ thấy hết cõi người ta
chừ bẻ kiếm đi vào sơn cốc
chợt hôm kia
đầu đá
mọc thành hoa
nỗi vinh hiển như bóng trăng chẳng thực
giọt sương trời, rơi vỡ cảnh hà sa
giấc ngủ xuống,
giữa hoang liêu của núi
vượn rừng sâu mê mải cây cành
ta hát khẽ,
vang vang bầu vọng tưởng
trái nhân tình
muôn thuở chằng màu xanh!
ta chống gậy,
qua sông,
không bè bạn
cọng cỏ bên đường lất phất trông theo
mỗi câu thơ là mỗi trang cao sĩ
thoảng hương trầm
trong nỗi nhớ trong veo
chừ với đá, ba đời giấc ngủ
viễn khách ơi!
viễn mộng nào đây?
phù phiếm quá,
con sông không chảy!
và bờ kia,
hiển hiện bờ này!