TRANG THUẦN TÚY VĂN HỌC NGHỆ THUẬT CỦA NGƯỜI QUẢNG TRỊ VÀ NGƯỜI YÊU MẾN QUẢNG TRỊ.
Chúc Mừng Năm Mới
Sunday, December 25, 2022
MÍA NGON ĐÁNH CẢ CỤM - Truyện ngắn Vũ Hùng
Nhà văn Vũ Húng |
Truyện ngắn
MÍA NGON ĐÁNH CẢ CỤM
Để tui kể thêm cái đoạn Thầy Dài bị
kỷ luật và sa thải ra sao để mấy ông rõ. Cứ thắc mắc hoài? Nhưng ngăn ngắn thôi
nha!
Khi Ban Giáo Dục Huyện ký quyết định
đẩy Thầy Dài lên Trường Long Thành xa xôi hẻo lánh chưa ráo mực và Thầy Năm
Hiệu trưởng chưa kịp xoa tay cười hả hê cho bõ tức thì cô giáo Thư, chị ruột
của Thầy đã mua tặng cho người tình yêu quý chiếc mũ phớt mới coóng của Pháp
Quốc chánh hiệu màu cứt ngựa hẳn hoi và chiếc xe Honda 67 của Nhựt Bổn chánh
hãng đỏ tươi như màu quan tài, ngay cả dân giàu có ở thị xã Quy Nhơn cũng không
dám ước mơ đủ bộ như thế?
Vi vu bằng xe Honda mới kẻng về
trường mới, Thầy Dài năng nổ lắm. Siêng năng thăm hỏi phụ huynh, quan tâm giúp
đỡ học sinh những gia đình neo đơn, cô quả. Ai cũng quý, cũng thương. Đặc biệt
Thầy thường lui tới nhà chị Ba Bảnh, đẹp người đẹp nết, chồng chết đã mười năm
cứ ở vậy nuôi con chẳng một điều tiếng nào. Thầy giúp chị lợp lại mái
nhà, sửa lại hàng rào gãy nát...
Ngày giỗ chồng chị Ba Bảnh có mời người
anh cả con ông bác ruột là Thầy Năm lên dự. Oan gia ngõ hẹp lại gặp nhau. Thầy
Năm nhìn cái bụng lùm lùm hở nút của cô em họ rồi nhìn hàm răng vẩu của Thầy
Dài mà máu trong người cứ sôi lên ùng ục, ùng ục...
Thầy Năm hậm hực bỏ về, tức tốc viết
ngay lá đơn dài đúng 9 trang giấy manh gửi gấp lên Ban Giáo dục và Ty Giáo
dục...
Bị buộc thôi việc việc Thầy Dài
chuyển qua nghề đờn một cách chóng vánh. Tiếng đờn của Thầy ngọt lắm, ngọt đến
nỗi hai Dì cháu làng Lam Giang - đang trọ Xóm Cá để học việc tại Nhà may
Thống Nhì, thị trấn Bình Định -mê như điếu đổ. Hết Dì rồi Cháu cứ thi nhau trốn
học may để nghe ngón đờn mùi mẫn của Thầy Dài như một ma lực không thể nào
cưỡng nổi .
Chưa đầy ba tháng học may chẳng đâu
vào đâu, trước Dì sau cháu đều có chung triệu chứng thèm chua và nôn oẹ khi
ngửi phải mùi cơm!..
Khi nghe tin Dì Út chưa đầy 50 tuổi
đột ngột qua đời vì nhồi máu cơ tim, Thầy Năm đạp xe xe như bay về làng Lam
Giang. Đến nơi thi thể của Dì cũng vừa khâm liệm xong. Bốn năm ông vừa sư, vừa
tiểu đang ê a tụng kinh, gõ mõ.
Thầy Năm hỏi dượng Út :
- Sao em Tư với cháu ngoại bị bịnh
gì mà xanh xao, ốm yếu dữ vậy Dượng?
Dượng Út nghẹn ngào chưa kịp trả lời
thì ngoài sân đã nghe tiếng bình bịch, bình bịch của chiếc xe Honda 67 đỏ chói
và chiếc mũ phớt màu cứt ngựa xuất hiện.
Mặt mày bỗng biến sắc, từ cổ họng
Thầy Năm bật ra một câu yếu ớt, chẳng ai hiểu gì cả!
-Trời ơi! Mía ngon đánh cả cụm à?
Rồi Thầy ngã vật ra bất tỉnh!...
Bình Định, 04.9.2021
Vũ Hùng
THƠ TRẦN ĐỨC TÍN: VÀI TRAO ĐỔI VỚI VŨ THỊ HƯƠNG MAI - Đặng Xuân Xuyến
THƠ TRẦN ĐỨC TÍN:
VÀI TRAO ĐỔI VỚI VŨ THỊ HƯƠNG MAI
*
Trần Đức Tín là nhà thơ trẻ, sinh ngày 17 tháng 8 năm 1989, gốc
người Cà Mau, vào hội nhà văn thành phố Hồ Chí Minh năm 2021. Thơ của anh xuất
hiện khá nhiều trên các diễn đàn, các trang báo trực thuộc các hội văn nghệ do
nhà nước quản lý. Anh viết theo kiểu thơ hình thức diễn giải (hậu hiện đại),
lối thơ mà các nhà thơ trung thành với lối thơ truyền thống như Trần Mạnh Hảo,
Đỗ Hoàng, Nguyễn Khôi, Triệu Lam Châu... gọi là "thứ giặc thơ",
thứ “thơ vô lối", “thơ tân con cóc”, thơ phá tiếng Việt. Anh
tham gia khá tích cực vào các cuộc thi thơ do các hội văn nghệ trong nước tổ
chức, đã giành được vài giải và cũng gặp phải đôi ba ì xèo, kiện tụng quanh
chuyện thơ dự thi của Trần Đức Tín có "những nét hao hao giống với con cái
nhà người ta.".
Bài viết này là trao đổi của tôi với tác giả Vũ Thị Hương Mai về
thơ của nhà thơ trẻ Trần Đức Tín (bút danh Khét) khi chị comment rất thẳng thắn
dưới bài viết ""Lạc" của Trần Đức Tín" trên
trang facebook của tôi.
Comment đầu tiên tác giả Vũ Thị Hương Mai viết: "Câu “Bụt
/ tuốt sợi rơm vàng, ngồi khóc để con diều ăn gió / ăn hết những yêu thương”
đọc nghe rất ngô nghê, cũ không ra cũ, mới không ra mới, giả tạo cảm xúc và màu
mè làm dáng. Đừng nói đây là câu thơ chứa nhiều ẩn dụ phải thật suy tư mới tìm
ra nghĩa bóng núp trong thơ như cách nói ngụy biện, bao che cho những cách làm
mới thơ để phá tiếng Việt của các giọng thơ cùng đẳng cấp với "Mẹ tôi chửi
kẻ trộm". Đây không phải là câu thơ “khó hiểu” mà là câu nói lung tung,
rất tối nghĩa."
Đúng là thơ của Trần Đức Tín có khá nhiều câu lan man dài dòng
diễn giải như văn nói, hoặc tối nghĩa hoặc khó hiểu và khó cảm, khiến người đọc
như ú ớ đi trong mê lộ chữ nghĩa nhảy nhót điệu đà nhưng lại không có ý hoặc ý
gượng ép chắp vá nên nhiều bài vừa đọc xong đã quên ngay:
- “chúng ta ăn trên những xác người nhé / không / chúng ta
không phải kền kền / vậy chúng ta là gì / như mọi sinh vật khác / mở mắt và đi
/ làm thứ gì đó / đại loại, mâu thuẫn / và nhốt tối trong những bức tường”
(Giấc mơ ký sinh)
- “loài người sinh ra / để lẩn trốn / nghệ thuật sinh ra / để
đào thoát” (Khi ta viết chữ)
- “bạn hãy nhìn đi / nghệ thuật sẽ bị hủy diệt bởi chính trị /
và giáo lý nào đó đã khiến chúng ta đấu tranh.” (Trên môi em tối cổ)
- “bài thơ đã mặc chiếc áo quá rộng / khi nó không có thuốc
súng / không có điểm nhọn / như cậu học sinh biết yêu lần đầu / và bị mẹ cấm /
cậu không cần lời ngợi ca, giấy khen và điểm” (Bài thơ cần lỗ thủng)
- “những lần chơi 5 - 10, thằng cu quẹo đã chui vào đống rơm /
và dĩ nhiên, lần nào nó cũng thắng / phần thưởng là trận đòn của mẹ nó / vì mấy
lần hụt hơi trước sàn lãng tưởng nó té xuống sông / hồi nhỏ” (Bạn hãy kết
liễu nó)
- “cố quận mặc áo gì / sinh ra tôi ở câu hò nửa đen nửa trắng /
mạ không còn non để mọc chân làng / chín nhánh đêm đêm vỗ lên mái tóc / đứa con
rơi của đồng bằng / ở đậu nhịp song lang” (Đừng mang tôi về cố quận)
- “tôi đã nói với em / quy tắc chúng mình chỉ một / đẻ cho anh
đứa con / chính nó cũng phá bỏ mẹ cái quy tắc.” (Quy tắc của hoa ngón)
- "không / chúng ta không thở chỉ để chết / mắt môi, con
tim, lý tưởng này không sinh ra để bắn nhau" (Không bao giờ là súng)
(....)
Tôi cũng không thích thơ kiểu hình thức diễn giải nhưng vì quý
nhau mà gắng đọc, gắng đánh vật với câu chữ rắc rối cố tạo bí hiểm của dòng thơ
"hậu hiện đại" nhưng tác giả Vũ Thị Hương Mai cho rằng: "Câu
“Bụt / tuốt sợi rơm vàng, ngồi khóc để con diều ăn gió / ăn hết những yêu
thương” đọc nghe rất ngô nghê, cũ không ra cũ, mới không ra mới, giả tạo cảm
xúc và màu mè làm dáng. .... là câu nói lung tung, rất tối nghĩa." thì
chưa công bằng với nhà thơ Trần Đức Tín bởi "Ông Bụt" nhắc đến
trong bài thơ LẠC Không phải là ông Bụt trong truyện cổ tích mà Tín (Khét) chỉ
mượn hình ảnh "ông Bụt" để nói chuyện đời, chuyện niềm tin bị
dẫn dắt, lừa dối trong xã hội hiện đại như tôi đã viết trong bài ""Lạc"
của Trần Đức Tín":
""Bụt" trong truyện
cổ tích là một ông Tiên có phép nhiệm màu luôn chớ che, bảo vệ, luôn đem đến
những yêu thương, hạnh phúc cho con người còn "Bụt" trong
"Lạc" của Khét lại là một ông Bụt “trơ vơ”, bất
lực “tuốt sợi rơm vàng, ngồi khóc để con diều ăn gió”, "ăn hết
những yêu thương."... Phép nhiệm màu của Bụt, của ông Tiên trong niềm
tin ngàn đời của người dân Việt đã bất lực trước sự hoành hành đang chiếm thế
thương phong của cái ác.
Đọc những câu thơ này của Khét, tôi nhớ hình như đã nghe ở đâu đó,
đọc ở đâu đó lời ngợi ca về một "ông Tiên", một ông "Bụt"
hiện hữu giữa đời thường còn nhân đức hơn nhiều ông tiên, ông "Bụt"
trong truyện cổ tích… nhưng mà suốt từ sáng đến giờ tôi vẫn không thể nhớ
ra."
Hay như comment khác của tác giả Vũ Thị Hương Mai: "Lại
còn cái câu "thèm lời à ơi, câu chuyện bà kể dù cổ tích không thiêng"
rất phản cảm. Xưa tới nay, những câu chuyện cổ tích có giá trị rất lớn trong
việc vun đắp ước mơ, giáo dưỡng nhân cách tốt đẹp cho trẻ em vậy mà "nhà
thơ cách tân" Trần Đức Tín, nghe đâu còn từng làm thầy giáo, viết câu thơ
nhổ toẹt vào văn hoá của nhân loại, vậy mà anh cũng tán được. (...) Em không
hiểu loại thơ vớ vẩn này mà cũng được báo chí lăng xê." thì có lẽ cũng
vì không thích dòng thơ "hậu hiện đại" mà chị trách cứ Khét chăng?!
Chuyện "cổ tích" trong "Lạc" là Khét
"mượn" để nói về niềm tin vào cuộc sống, vào tương lai tươi đẹp của
con người ở xã hội hiện tại là thứ "bánh vẽ" bị đánh tráo,
cướp đoạt... nên tôi viết: "Khét viết tiếp ước mơ của "những đứa
trẻ" tự bỏ nhà "đi hoang": "thèm lời à ơi,
câu chuyện bà kể" bằng tiếp tục ý thức tự đánh lừa niềm tin vì đã biết
"dù cổ tích không thiêng", vẫn cố bấu víu vào hy vọng huyễn
hoặc sẽ có được chút phép nhiệm màu của những câu chuyện "cổ tích"
để có được cuộc sống bình thường với “mẹ”, với Quê hương...."
Vâng! Đúng như tác giả Vũ Thị Hương Mai nhận xét là phần lớn ngôn
từ thơ của nhà thơ Trần Đức Tín giống như những con chữ rời rạc, không có cảm
xúc, đọc lên cứ trơn tuột khỏi đầu vì những con chữ đó không phải chữ của thơ,
chỉ hao hao những câu văn nói lủng củng chắp vá vô hồn.
Có lẽ không làm chủ được cảm xúc hay không có cảm xúc hoặc cảm xúc
chưa tới nên thơ của Trần Đức Tín nhạt và hời hợt, thậm chí cả những câu nói
lảm nhảm cũng được anh dễ dãi đưa vào “thơ”. Tín chất vấn H. những câu thừa
thãi: -"H ạ / ta sẽ đóng tất cả cửa / và đừng mở mắt / ta là gì nếu một
ngày quên sống?” (Gửi H). Rồi Tín tự bạch, Tín sợ con người 2 mặt xấu xí
đến ghê sợ của chính mình: - “rằm / tôi lễ chùa bằng chiếc lá đa mang che
mắt phật / cuối tuần / tôi quét lời xưng tội ra đường cho xe cán / và đêm nào /
tôi cũng sợ tôi” (Nước mắt mang hình nhau thai). Đôi lúc lại là tâm trạng
bất lực mà buông xuôi với những câu than thở luẩn quẩn loanh quanh: -“Đêm và
em: là hai tên phản bội / tôi có khóc đứng ngồi cũng thương nhớ cả hai.”
(Đêm và em) hoặc đứng lẩm bẩm một mình những câu nói lộn xộn vô nghĩa: "không
/ chúng ta không thở chỉ để chết / mắt môi, con tim, lý tưởng này không sinh ra
để bắn nhau" (Không bao giờ là súng). Cũng có khi Tín ấm ức ngửa cổ mà
vu vơ chửi đổng: “tôi nói với em / quy tắc là thứ mẹ gì mà kìm nén chúng ta”
(Quy tắc của hoa ngón), rồi như hớn hở với “chân lý” phải tốn bao công sức mò
mẫm anh mới phát hiện ra mà tuyên bố chắc nịch: “tôi đã nói với em / quy tắc
chúng mình chỉ một / đẻ cho anh đứa con / chính nó cũng phá bỏ mẹ cái quy tắc.”
(Quy tắc của hoa ngón). Tín đưa triết lý vào "thơ" nhưng đó là thứ
"triết lý" phi lý với thực tế, còn bao hàm cả yếu tố tiêu cực trong ý
thức bảo vệ Tổ Quốc nếu Đất Nước không may gặp nạn giặc ngoại xâm: -"khi
tôi cầm viết / không phải là súng / không bao giờ là súng… / nếu phải bắn / bài
thơ sẽ tự bắn mình đầu tiên / và nhất quyết không bôi thêm vệt máu nào vào lịch
sử" (Không bao giờ là súng). Và hồn nhiên với tinh thần của nhà hiệp
sĩ xứ Mantra mà "ngạo nghễ" khẳng định Khét (tức Trần Đức Tin) sẽ
trường tồn cùng dòng chảy của lịch sử: -"nếu có thể / hãy chôn tôi với
núi non” (Này em).... Nhưng không biết vì tâm lý "mặc cảm thân
phận" hay vì những nỗi đau thầm kín nào đó đã giày vò suốt năm tháng tuổi
thơ mà thơ của Khét luôn phản chiếu những hình ảnh tiêu cực của tâm thế tự ti,
bạc nhược của kẻ thất bại trong cuộc đời:
- “chín nhánh da vàng / chúng con: bọn bỏ quê / mót trăng trên
đại lộ / đội lên đầu / rồi đấm ngực mình” (Trăng quê)
- “10 năm biệt quê / lủi thủi cúi đầu” (Khói)
- “như đêm nay / chúng ta đi vào rừng / và ngồi khóc"
(Phục sinh)
- "cho tôi vay giấc mơ của em đi / tôi nghèo nàn cõng trên
lưng ngàn năm hạt lép / không dám quay về gặp mẹ / không dám chạm mặt quê hương
/ tôi đi như đứa mồ côi / dưới gầm trời chỉ còn tiếng cúm núm...” (Cho tôi
vay giấc mơ)
(....)
Những ý thơ tủn mủn, gượng ép, những hình ảnh u ám, xám xịt, những
cảm giác lạc lõng, tủi hờn... trong những câu thơ không được viết bằng sự sáng
tạo mà chỉ là viết khác đi nên những câu thơ na ná vay mượn xuất hiện trong thơ
của Trần Đức Tín khá nhiều:
- "lạy hiên trước / lạy vườn sau / đừng phau phau trắng
làm đau ruộng đồng" (Sinh nhật Mẹ)
- "tôi thương tôi: cả đời rời tổ / đêm giật mình ướt mấy
sợi rơm khô." (Thưa mẹ, con về)
- "tôi dựng căn nhà hoang trên triền núi / có cành khảo
quang trổ về hướng cửu long” (Tiếng đàn khảo quang)
- "bỗng nghe lá rụng giật mình / Phật cũng như lá lặng
thinh mà buồn" (Vào chùa)
- "tôi / đưa tay / khụy gối / lạy hiên nhà / tôi đi"
(Tôi đi)
- "tôi về ngồi cùng một con ma núi/ mới hay cổ tích / chết
yểu / trên tay người" (Ngồi cùng ma núi)
- “Cho tôi vay giấc mơ của em đi / tôi nghèo nàn / giấc mơ cũng
khô cạn.” (Cho tôi vay giấc mơ)
- “khi chết / đừng mang tôi về cố quận / hồi kinh chiều là lưỡi
dao lam...” (Đừng mang tôi về cố quận)
- “mọp quỳ trời đất mênh mông / lạy mẹ / con đã / lưu vong quê
mình” (Lạy mẹ: con cũng đã lưu vong quê mình)
(....)
Vì muốn gây ấn tượng thơ của mình “mới, lạ”, Khét (Trần Đức Tín)
đã viết những câu thơ phản cảm, miệt thị dân tộc mình bằng những câu thơ dị
biệt mà nhà thơ, nhà báo Ngô Đức Hành đã không tiếc bỏ công chăm chút liệt kê
để phong thánh cho thơ của Trần Đức Tín bằng những chữ diêm dúa rằng “tư
tưởng thơ” đã “vượt lên mọi không gian cụ thể, dành cho chúng sinh,
chủng tộc da vàng, đang quần cư và mơ ước” trong bài viết “Khét, có
khi ta tự sinh ra mình”. Và ngay sau đó nhà thơ Ngô Đức Hành đã không
ngại ngùng mà ngợi ca “Khét là nhà thơ của chất vấn, tự phản biện”. Tôi
không biết nhà thơ Trần Đức Tín “chất vấn, tự phản biện” những gì nhưng
cách anh lôi người Việt ra để miệt thị, xúc phạm như những câu được nhà thơ,
nhà báo Ngô Đức Hành trích dẫn dưới đây thì thật không ổn:
- “điều giỏi nhất của giống loài mình
là làm đau người khác
phải không tôi...”
(Giống loài)
- “tôi thấy người Việt
gọt chân cho vừa giày
gọt màu da cho lờ lợ tổ tiên”
(Lờ lợ tổ tiên)
- “đêm nay
ăn hết những giấc mơ có đốm
còn sót lại đôi mắt người Việt
nhìn chằm chằm vào tôi”
(Giấc mơ có đốm)
Đó có thể là lối sống giả dối, tệ bạc, “biến thái trong tâm
hồn, trong văn hóa” của Khét (Khét, có khi ta tự sinh ra mình - Ngô Đức
Hành), của một số cá thể trong cộng đồng người Việt nhưng nhà thơ Trần Đức Tín
không nên viết những câu miệt thị, xúc phạm người Việt Nam như thế vì những
biến thái đấy không phải là đại diện cho tâm hồn, văn hóa của đại đa số người
Việt!
Mươi ngày vật lộn đọc thơ Khét trên facebook để hiểu, để cảm thơ
của Trần Đức Tín, tôi cũng đã tìm được những câu thơ găm sâu vào trí nhớ người
đọc:
- “có phải mẹ đã đan cái nia bằng mảnh vụn thời gian / chuốt
từng sợi xát vào tim cái nhớ” (Cái nia của mẹ)
- “đưa mẹ về qua đồng sau nhà ngoại / rơi một cánh cò mà loạng
choạng cả quê hương” (Ngày mẹ về quê)
- "“ở quê nhà / cha mẹ ổn hay không / bão có giật giông
đau cái kèo cái cột / mưa có dột mẹ mang đêm ra hứng / làm gì còn cái thau nào
không đầy buồn / đôi mắt mẹ rưng rưng” (Mùa bão)
- “thương chiếc lá rơi ngủ vùi trên phố lạ / nửa mùa ngâu em
mang về giấu bên ô cửa sổ / tôi chưa kịp buồn đã ướt nửa bơ vơ” (Sài Gòn
bạt mạng cũng mình ên)
- “tôi đã kịp nói gì đâu mà sông chảy buồn biền biệt / bụi cỏ
dại trước nhà lại cựa vào lòng gió rồi tự đau.” (Tôi rạ rơm mình lam triền
sông khô đáy)
- “cơn bão đầu tiên anh đón nơi đất khách / nghe là lạ từng hạt
mưa giăng mắc / lắm lúc trở mình đau hơi gió xa xôi” (Mình ơi bão qua rồi)
- “chạy tìm em trong chập chũng phận người / anh vấp ngã giữa
minh mông sóng phố / khản đến buốt lòng anh cố gọi: / mình ơi!” (Mình ơi
bão qua rồi)
Nhưng thật tiếc đấy lại là những bài thơ Khét viết từ những năm
Khét chưa được xướng tên trong cuộc thi thơ của báo Văn Nghệ của hội nhà văn
Việt Nam. Có lẽ những lời tung hô vì nhiều lý do của các bạn thơ đã làm Trần
Đức Tín ngất ngư trong ánh hào quang của thế giới ảo nên thơ của anh ngày càng
lún sâu vào rối loạn ngôn từ?!
Là bạn trên facebook của Tín, cũng rất yêu quý Trần Đức Tín, tôi
mong lắm được gặp lại Khét của những ngày anh mới chân ướt chân ráo từ Cà Mau
về nhập cư đất Sài Gòn!
*.
Hà Nội, sáng 24 tháng 12-2022
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
.