ĐỌC
THƠ CỔ: CẢM HOÀI
1. Bài cảm xúc 1
Phí chi bút mực anh hùng
luận?
Ai người nước Việt
hãy cùng ta
Nói chi cho lắm mòn
chữ nghĩa?
Xăn áo cùng nhau giữ
sơn hà!
"Quốc thù vị báo đầu
tiên bạch,
Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt
ma" *
"Đầu bạc giang san
thù chưa trả" **
Mấy độ mài gươm dưới
trăng tà
Ngàn năm vẫn nhớ lời
thơ cổ
Rạng đấng hùng anh
của nước nhà
Hoài Cảm Đặng Dung
lời thê thiết
Nén trầm tôi kính ...
mắt lệ nhòa!
...........
*
Câu thơ trong bài Cảm hoài - Đặng Dung
** Tản Đà dịch
2. Bài cảm xúc 2
"Quốc thù vị báo đầu
tiên bạch,
Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt
ma"
Dưới trăng mài kiếm
Long Tuyền
Mài luôn cho bén lời
nguyền nước non
Thề rằng quyết giữ
vẹn toàn
Giang sơn gấm vóc mãi
còn thiên thu
"Tiệt nhiên định phận
thiên thư" +
Kiếm này ta chém giặc
thù xâm lăng!
.........
+
Nam Quốc Sơn Hà - Lý Thường Kiệt
PHÂN
TÍCH HAI CHỮ ANH HÙNG
“Anh” trong “anh hùng’ có nghĩa là tốt đẹp, tài hoa hơn
người, kiệt xuất, xuất chúng. Nghĩa gốc của chữ “anh” là loài hoa đẹp nhất.
Còn “hùng” trong “anh hùng” có nghĩa là người dũng
mãnh tài giỏi, siêu quần, kiệt xuất
Anh hùng: Nhân vật phi phàm xuất chúng, chỉ người có
kiến giải, tài năng siêu quần xuất chúng.
ĐỊNH
NGHĨA ANH HÙNG
“Anh
hùng là hành động của một người vì đại cuộc không xem sự sống chết của mình là
quan trọng tuyệt đối, sống vì tha nhân, hy sinh vì dân tộc, cho dù có phải chết
thì vui lòng đón nhận. Khi bàn đến hai từ “anh hùng” thì ý niệm thành công
không nằm trong thuộc tính định nghĩa cho từ đó. Thử tra hai từ Heros trong các
bộ Encyclopedia thì biết. Đông Tây đều định nghĩa như thế”
(Laiquangnam)
LUẬN
ANH HÙNG
Ta thử luận về vài nhân vật nổi tiếng được cho là
anh hùng:
1. Kinh Kha
- Nhân vật Kinh Kha này ai cũng biết qua việc hành
thích Tần Thủy Hoàng. Nhân vật này thường được nhiều người Việt nhắc
đến, ca tụng trong nhiều bài văn thơ. Suy gẫm chuyện Kinh Kha, tôi thấy ông
ta đâu phải là người anh hùng.
Nguyễn Du đã chê bai: Kinh Kha đi thích khách Tần Thủy
Hoàng chỉ vì có người biết đến mình và vì sự đối đãi thừa mứa. Kinh Kha chỉ là
một con rối, hành động không vì tấm lòng trung dũng (diệt kẻ tàn bạo, phò người
đức độ), đâu có hy sinh vì dân tộc, mà hành động chỉ vì sự mua chuộc và kích động
của người khác.
Đây là trích đoạn bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du, phần
chê bai Kinh Kha.
Thần
dũng nghị nhiên duy độc quân.
Đồ
đắc Điền Quang khinh nhất vẫn.
Khả
liên vô cô Phàn Ô Kỳ,
Dĩ
đầu tá nhân vô hoàn thì.
Nhất
triêu uổng sát tam liệt sĩ,
Hàm
Dương thiên tử chung nguy nguy.
(Kinh
Kha Cố Lý– Thơ chữ Hán Nguyễn Du)
Dịch thơ
Liều
thân chỉ vì kẻ biết mình,
Huống
được Điền Quang tự đâm cổ.
Khá
thương Phàn Kỳ chẳng tội chi.
Đem
đầu cho mượn chẳng hoàn gì.
Một
sớm chết oan ba liệt sĩ.
Hàm
Dương, Thiên tử vẫn uy nghi.
(Nhất
Uyên dịch)
Kinh Kha là nhân vật Tàu, người Tàu có ca tụng
hay không là chuyện của họ; tại sao ta là người Việt mà lại ca tụng,
vinh danh?!
- Anh hùng là như Đặng Dung của VIỆT NAM ta đây, ta
hãy thử luận bàn về nhân vật này.
2. Đặng Dung
Đặng Dung (1373 - 1414) con trai của Đặng Tất.
Ông là tướng lĩnh của vua Trùng Quang
Trần Quý Khoáng - nhà Hậu Trần trong lịch sử Việt Nam.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư:
Các vị anh hùng -dưới sự lãnh đạo của Đặng Dung đã
đánh nhau ròng rã trên dưới bảy năm (1407-1413) với 80 vạn quân dân binh Minh do Trương Phụ đẫn đạo xâm lấn Việt
Nam, một binh lực hơn hẳn mình nhiều lần
“Chuyện
khó tin trong binh sử thế giới, trường hợp hy hữu này duy chỉ có trong quân sử
Đại Việt. Khi vị tướng tư lệnh lại là cầm đầu toán người nhái cảm tử rất gọn nhẹ
đánh thẳng vào sào huyệt kẻ tử thù. Tháng 8/1413, được biết quân Trương Phụ vào
đến Thuận Hóa, và kéo binh tập kết vào ngã ba sông này để tổ chức cuộc săn đuổi
vua quan Hậu Trần đang đóng quân ở trên bờ; quan thái phó Nguyễn Súy và quan đại
tư mã Đặng Dung nửa đêm chia quân đến đánh Trương Phụ. Quan thái phó Nguyễn Súy
dùng thuyền nhẹ đánh nghi binh, giặc Minh trào về phía Nguyễn Suý, và thừa lúc
đó Quan tư mã Đặng Dung lao mình xuống nước trước, hơn mươi chiến sĩ cảm tử
quân lao theo sau. Họ bơi nhanh về phía thuyền lớn nhất, sáng nhất trên sông. Từ
dấu hiệu của Đặng Dung, bọn họ leo lên được thuyền của Trương Phụ, dùng đoản
đao thịt lẹ các tên lính trên sàn. Họ nhào vào tên mập mạp nhất, phương phi nhất
và đã bắt sống tên này, lôi y xuống nước. Y la lên. Do vì không biết thường
ngày tên Trương Phụ mặc quần áo gì, do chưa thấy mặt kẻ thù lần nào, nên họ đã
bắt lầm. Thừa cơ Trương Phụ lập tức nhảy xuống sông lấy cái thuyền con mà chạy
thoát.”
(Laiquangnam)
Đánh nhau ròng rã trên dưới bảy năm (1407-1413) với một
binh lực hơn hẳn mình, có lúc quân đội Đặng Dung cũng đã thắng nhiều trận lẫy
lừng, nhưng dài hơi thì cuộc đọ sức đã không cân sức. Than ôi! ông đã bại trận!
Trên đường bị bắt đưa về Yên Kinh (Bắc Kinh ngày nay) để làm nhục, vua tôi Đặng
Dung đã ca hát như không có chuyện gì xảy ra, thắng bại là lẽ thường tình đối với
người tráng sĩ một khi họ đã toàn tâm toàn ý, hết lòng, hết sức vì dân tộc. Đặng
Dung, trong vai trò lãnh đạo cuộc kháng chiến, đã ngâm cho vua tôi nghe bài
thơ Cảm Hoài này, vừa ngâm vừa gõ nhịp xuống ván gỗ thuyền, cùng vui và sẵn
sàng đón nhận mọi sự trả thù tàn bạo của kẻ thù. Trên đường bị giải về Yên Kinh,
Trung Quốc ông và vua Trùng Quang đã nhảy xuống sông tự vẫn.
Qua các điều trên, rõ ràng ta thấy Đặng Dung
mới xứng đáng hai chữ anh hùng
3. Bài thơ Cảm Hoài
Đây là bài thơ Cảm Hoài (Nỗi niềm hoài bão) của Đặng
Dung.
Bài thơ này là một bản anh hùng ca mang tâm trạng về
thế sự, trong ấy thể hiện rõ phong cách của người tráng sĩ, người anh hùng
trong cơn quốc nạn. Lý Tử Tấn, một học giả thời Lê, tác giả Chuyết Am văn tập,
khi đọc bài thơ này đã hết lời ca tụng người sáng tác ra nó là “phi hào kiệt
chi sĩ bất năng” (không phải là kẻ sĩ hào kiệt thì không thể sáng tác được như
vậy).
Cảm Hoài
Thế
sự du du nại lão hà
Vô
cùng thiên địa nhập hàm ca
Thời
lai đồ điếu thành công dị
Vận
khứ anh hùng ẩm hận đa
Trí
chúa hữu hoài phù địa trục
Tẩy
binh vô lộ vãn thiên hà
Quốc
thù vị báo đầu tiên bạch
Kỷ
độ Long Tuyền đái nguyệt ma.
Tạm dịch
nghĩa:
Nỗi Niềm Hoài Bảo
Thế
sự mang mang lại tuổi già
Thiên
hạ thì vô cùng hãy nhập vào mà hát hàm ca
Thời
đến bọn đồ tể, bọn câu cá cũng thành công dễ dàng
Thời
qua anh hùng cũng đành nuốt hận
Hết
lòng vì chúa có hoài bão xoay trục đất
Rửa
giáp binh không lối kéo ngược dòng sông ngân hà
Thù
nước chưa báo thì đầu bạc trước
Bao
thời qua đội trăng mà mài kiếm long tuyền.
Vua Lê Thánh Tôn có tặng cho dòng dõi họ Đặng hai câu
thơ:
Quốc
sĩ vô song, song quốc sĩ
Anh
hùng bất nhị, nhị anh hùng
Nhân đọc lại dòng thơ cổ yêu nước, tôi đốt 3
nén hương trầm để tưởng nhớ đến người xưa, đến công ơn của tiền nhân
đã đổ ra biết bao xương máu để xây dựng và bảo vệ nước nhà.
Nguyên Lạc
...........
@ Mời đọc :
- Đặng Dung với Cảm Hoài, phần 1
http://www.art2all.net/tho/laiquangnam/lqn_dangdung_p1.htm
- Niệm Đặng Dung của Phạm Ngọc Lư
http://www.art2all.net/chantran/chantran_tho/phamngoclu/niemdangdung.html