Theo hệ thống phân vùng địa lí Việt Nam, Bắc Trung Bộ là khu vực chuyển tiếp giữa Bắc Bộ và Trung Bộ, gồm 6 tỉnh: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế. Lịch sử cho thấy cư dân nơi đây có nguồn gốc chủ yếu là người Thanh Nghệ thiên di vào Bình Trị Thiên từ thời Lý Trần, do đó có thể nói rằng mối quan hệ của người Việt nơi đây liên quan, gắn bó với các sinh hoạt văn hoá dân gian nói chung.
Lối sống quần tụ dọc theo nguồn nước tạo nên nhiều làng xóm liên hoàn rất thuận tiện cho việc sản xuất nông nghiệp. Hệ thống sông ngòi cùng chi lưu chảy theo trục từ phía tây Trường Sơn đổ ra biển Đông tạo nên mạng lưới tưới tiêu, đưa phù sa bồi đắp các tiểu vùng đồng bằng nhỏ, cuốn sách Quảng Bình qua các thời kì lịch sử trích dẫn từ Ô châu cận lục được Dương Văn An viết về Bình Trị Thiên như sau: “... sông hồ đầy nước, đi thuyền tiện lợi hơn đi bộ, đất quê màu mỡ, cấy lúa tốn ít sức người...". Môi trường tự nhiên đó đã tạo điều kiện cho nhiều loại hình dân ca phát triển, một trong số đó là thể hò sông nước.
Hò sông nước Bắc Trung Bộ là sản phẩm tinh thần, biểu hiện sự cố kết của cộng đồng người Việt. Những làn điệu hò lan toả trên một không gian rộng lớn. ở mỗi vùng lại có lối hò riêng biệt. Hò sông Mã xứ Thanh in đậm dấu ấn chèo, chống, vác, lái do năm trai đò điều khiển với năm chặng hò: rời bến, sắng đò ngược, vác thuyền (khi đò bị mắc cạn vào bãi cát giữa sông), xuôi dòng, cập bến, phản ánh chân thực cuộc sống của người dân gắn bó với dòng sông. Hàng trăm câu hò vẫn còn lưu giữ đến ngày nay tiêu biểu cho hình thức lao động chèo thuyền. Hò sông nước xứ Nghệ đầy ân tình, biểu lộ nội tâm như muốn gửi gắm tình cảm cá nhân vào trong lời ca, do đó trên những con thuyền chở khách sông Lam, sông La luôn có nhịp điệu chậm mang tính chất kể lể tạo ra sự hoà nhập cùng đồng cảm giữa người hò và người nghe. Sự hoà nhập, pha trộn các lối hát giữa hò, ví, giặm trong môi trường sông nước cho thấy âm điệu vùng này nhất quán, chịu tác động sâu sắc của hệ thống năm thanh điệu (không có thanh ngã). Quảng Bình nổi trội với tổ hợp sáu mái hò khoan Lệ Thuỷ đầy đủ mọi cung bậc tình cảm, sắc thái khi thể hiện, từ thăm hỏi, tìm hiểu lúc mở đầu cuộc hò đến nhịp điệu sôi nổi, cuốn hút của hò nện, hò lệ hố. Hò sông nước Trị Thiên nghe mượt mà sâu lắng, ý tứ lời ca được trau chuốt tỉ mỉ đến từng chi tiết làm lay động tất cả những ai đã từng nghe một lần. Điển hình nhất là những làn điệu của hò mái đẩy, mái ruỗi của những người làm nghề chở hàng, đánh bắt cá trên đầm phá mênh mông, nhưng nổi bật nhất vẫn là hò mái nhì, làn điệu hò gây xúc cảm sâu sắc, tạo ra diện mạo riêng biệt khó trộn lẫn, đồng thời đi vào ca Huế như một thành phần không thể thiếu.
Để đạt tới lối hát định hình (đường nét âm điệu, nhịp điệu hài hoà), hò sông nước Bắc Trung Bộ tiếp nhận cũng như chịu ảnh hưởng chi phối từ môi trường sản sinh ra nó từ thói quen đi thuyền của người Việt Bắc Trung Bộ. Khi lập xóm làng, các cư dân đã đem theo những làn điệu dân ca trong đó có hò sông nước vào đây. Có thể nhận định hò sông nước hình thành sớm hơn thời điểm Dương Văn An nhắc tới.
Trong quá trình đó, di chuyển trên sông nước là hiện tượng phổ biến, một hình ảnh sinh hoạt quen thuộc ở nhiều nơi. Khi mọi người gặp nhau, từ thuyền này tới thuyền kia tiếng hát hò mau chóng trở thành hình thức giao tiếp hằng ngày bởi đây là môi trường trao đổi, thăm hỏi đầy giao cảm cộng sinh. Những nghệ nhân hò dần nổi bật lên bởi lối ca đặc sắc hình thành một lớp người tài năng nối tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nhưng âm điệu, nhịp điệu khi hò có một số điểm bị biến đổi bởi dấu âm và giọng, mặt khác trong dân gian không quy định rõ ràng bài bản, chặt chẽ khi thể hiện, người ta chỉ nhớ chuỗi âm đặc trưng nhất của từng làn điệu và tự tuỳ hứng sáng tạo theo thẩm âm cá nhân, điều này đem lại cho hò những biến thể không đồng nhất về cấu trúc. Vậy điều gì tạo ra điệu hò này khác biệt (hoặc có hơi hướng gần giống) điệu hò kia mặc dù khi hát câu đầu mọi người có thể nhớ ngay giai điệu? Điều này phụ thuộc vào âm điệu và nhịp điệu từng điệu hò. Lối hát dân gian Việt Nam nói chung dùng phương thức truyền miệng, do đó tam sao thất bản sai lạc so với nguyên gốc từ một điệu ban đầu rất phổ biến, gây không ít khó khăn khi xác định nơi phát sinh. Hò mái nhì là một ví dụ, nhiều ý kiến cho rằng hò mái nhì là điệu hò thoát thai từ dòng sông Hương dựa trên các yếu tố mà hò thể hiện gắn bó chặt chẽ với môi trường này, nhưng ở Quảng Trị hò mái nhì là điệu hò cạn nổi tiếng được người dân yêu thích do tính chất dàn trải tự sự, trao đổi tâm tình. Lịch sử cho thấy thế kỉ XVI chúa Nguyễn lập dinh thự, thu hút nhân tài phía bắc vào sinh cơ lập nghiệp nơi đây trước và hát hò dân gian của người Việt tất nhiên được mang vào vùng đất này. Hò mái nhì Huế đặc sắc, nổi bật hơn hò mái nhì Quảng Trị. Tất nhiên không khó để nhận thấy hò mái nhì Quảng Trị và Huế là hai làn điệu giống về điệu thức, biến thể của nhau bằng âm điệu, nhịp điệu trong thể hiện. Tôn Thất Bình nhận xét: “... hò mái nhì trên sông nước Trị Thiên tuy chưa rõ nguồn gốc và thời điểm phát sinh, nhưng là tiêu biểu cho vùng đất này...”
Quảng Bình cũng có hò mái nhì nhưng qua tìm hiểu cho thấy đây là điệu hò trong hệ thống hò khoan Lệ Thuỷ có cấu tạo giai điệu khác Trị Thiên, gần như là họ hàng xa về âm điệu do đó chỉ thấy bóng dáng nhịp điệu để lại khi diễn xướng.
Từ điệu hò gốc bằng nhiều cách lan truyền trong không gian sinh hoạt theo vùng cư trú, thậm chí biệt lập với nhau bởi hai nơi không liền kề như hò đò đưa sông Mã chẳng hạn là biến thể làn điệu xe chỉ luồn kim của dân ca quan họ Bắc Ninh, hò làn văn xuất phát từ hát chầu văn. Điều này cho thấy âm nhạc dân gian lưu chuyển không có quy luật nhất định. Có thể đưa ra dẫn chứng về điều này: Đồng bằng sông Hồng, cái nôi sản sinh dân ca Việt Nam, tại đây một số điệu đò đưa theo thời gian mờ dần đi thì nơi khác lại phát triển mạnh mẽ, những điệu hò ở Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng, Bắc Ninh, Bắc Giang... mất dần môi trường sử dụng, thay vào đó là hát giao duyên, hát thờ, tế lễ, xu hướng phát triển hội hát theo vùng. Ngược lại, ở Bắc Trung Bộ, hò được ưa chuộng và phát triển khắp nơi do môi trường tự nhiên lại đáp ứng yêu cầu làm tăng sự cố kết cộng đồng, gắn bó với nhau trong niềm cộng cảm bền chặt.
Những biến thể hò sông nước mỗi nơi đều tương hợp lối vận âm điệu, nhịp điệu, điệu thức... theo đặc điểm nổi trội tại vùng đó. Lệ Thuỷ, Quảng Bình mau chóng trở thành trung tâm diễn xướng hò thu hút mọi người tới nghe, thưởng thức. Các cuộc thi hò luôn tạo không khí sôi nổi hấp dẫn, từng làn điệu khi diễn xướng đều được nâng cao hơn về âm điệu, nhịp điệu, hoàn thiện lối hát, những biến thể cũ được bổ sung giai điệu, cấu tứ lời ca... và từ đây lan toả khắp mọi nơi, tái tạo lại theo cách hiểu, cảm nhận của mỗi người bằng nhiều hình thức khác nhau và hình thành các biến thể mới. Quá trình đó lặp đi lặp lại, mỗi điệu hò từ lúc ban đầu với âm điệu, nhịp điệu giản đơn hoặc có đường nét giai điệu đẹp dần dần biến đổi, lồng ghép thành nhóm hò đầy đủ cung bậc, giọng điệu, xu hướng nối dài liên làn điệu hò vẫn còn tiếp tục. Hò sông Mã trong quá trình phát triển, tiếp nhận nhiều làn điệu biến đổi dưới dạng tổ khúc hò. Mặt khác cùng với cuộc đi đò tới nhiều miền quê, bãi sông, bến chợ trên toàn bộ lưu vực đồng bằng sông Mã nên ta không thấy gì lạ khi thấy mọi người dân xứ Thanh đều hò được.
Như vậy, hò Bắc Trung Bộ là hiện tượng phổ biến qua phương thức truyền miệng dân gian. Sự điều chỉnh các làn điệu hò theo điều kiện sống tự nhiên vẫn đang tiếp tục. Điều này cũng tương tự như hiện tượng dị bản trong ca dao như bài Lí con sáo là một ví dụ, đến nay chúng ta đã sưu tầm được khoảng 11 biến thể làn điệu tại các vùng dân ca, khác nhau về kiểu hát như: lối ngân hơi, các nốt luyến láy, vị trí cao độ, âm vực hoặc điệu chuyển theo hơi bắc, hơi nam... rất điển hình cho âm nhạc dân gian. Lí con sáo Nam Bộ có cách hát cuốn hút, nhớ thương; ở Nam và Trung Trung Bộ lại mang tính chất đung đưa và đằm thắm; con sáo Huế bay bổng, uốn lượn; sáo quan họ trữ tình lưu luyến... Mỗi nơi âm điệu lí lại biến đổi theo điệu thức của vùng miền đó, điều này lí giải tại sao từ một làn điệu con sáo ban đầu đã sinh sôi nảy nở thành nhiều làn điệu đông đúc đủ màu sắc trong dân ca Việt Nam.
Tuy vậy biến thể làn điệu cần phân biệt những dạng khác nhau như dạng gần, dạng xa và thay hình dạng qua cấu trúc. Biến thể dạng gần tạo ra biến đổi đường nét giai điệu tại một số vị trí không phải là trục âm cơ bản, hoặc thêm vào đó tiếng đệm hơi, luyến láy. Hò mái nhì và hò mái đẩy Trị Thiên thuộc dạng gần, khi hát giai điệu hò mái đẩy vang lên âm điệu gốc của hò mái nhì, chỉ biến một chút phần mở đầu, cấu trúc âm nhạc giữ nguyên. Giữa hò mái nhì Huế và Quảng Trị là biến thể dạng xa vì đã thay đổi âm điệu, chỉ giữ trục âm cơ bản chính của điệu thức. Lối diễn xướng cùng môi trường sinh hoạt đã thay đổi hò mái nhì Huế với hò mái nhì Quảng Bình trong hệ thống hò khoan Lệ Thuỷ khác về hình dạng cấu trúc gồm hai biến thể gần như khác hoàn toàn, chỉ có âm hưởng nhịp điệu và tên gọi giống nhau.
Những căn cứ đã nêu ở trên cho thấy âm điệu, nhịp điệu có vai trò xác định biến thể hò sông nước lưu chuyển trong vùng không gian rộng lớn Bắc Trung Bộ. Mối liên hệ sử dụng nghệ thuật hò Nghệ Tĩnh với Bình Trị Thiên cho thấy giữa các vùng gần gũi về lối hát, phương thức diễn xướng... Dòng âm nhạc dân gian và cung đình cho dù làm chủ hơn một thế kỉ nhưng kiểu hát vẫn tạo cho người nghe mối giao cảm gắn bó về một thuở xa xưa. Nhiều thể ca định hình theo chuẩn mực thính phòng vừa tinh tế vừa nhuần nhuyễn (thành bài bản, luyện tập công phu) khác với Thanh Hoá, Nghệ Tĩnh vẫn còn bảo lưu những âm điệu cổ, ít biến đổi.
Hò sông nước là hình thức sinh hoạt đặc sắc của cư dân Việt Bắc Trung Bộ, khởi đầu từ lao động, tiếng hò vang tạo nên niềm phấn khích, trở thành sợi dây gắn kết tất cả mọi người. Mỗi làn điệu đều có tên gọi đặc trưng cho từng hoạt động nhất định, ví dụ hò rời bến xuất hiện khi đò đón khách tại các bến dọc theo sông Mã, hò mái nhì do người ở vị trí tay chèo thứ hai trên thuyền hát lên, hoặc hò kéo thuyền, hò mái đẩy, mái ruỗi... tất cả đều mang nội dung cũng như âm hưởng riêng. Nhưng sức lan toả của mỗi điệu hò đi khắp nơi giúp hò sông nước bay đi rất xa, tới đâu cũng được người dân ghi nhớ, tái tạo cho phù hợp với hệ thống dân ca từng địa phương. Do đó những biến thể mới từ điệu gốc đã xuất hiện, lưu truyền rộng rãi tuỳ thuộc vào khả năng sáng tạo lúc sử dụng, cứ như vậy hò sông nước được người Việt Bắc Trung Bộ hoàn chỉnh theo thời gian tạo nên sức cuốn hút mạnh mẽ đối với những ai nghe hò và trực tiếp tham gia.
Trần Hoàng Tiến
nguồn:vae.org.vn