HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC
VÀ TÍN NGƯỠNG THỜ
CÚNG ÔNG BÀ
Thích Thanh Hòa
Phật Giáo đặt mục đích tối hậu vào
sự đạt đạo, đó là một đích đến vượt lên trên cuộc đời nhưng không xa lìa cuộc đời.
Trên hành trình hướng đến mục đích cao cả đó, cuộc đời là nền tảng cho sự tu tập
cũng như ruộng đồng là nơi nông dân cày cấy để có mùa màng thu hoạch. Chính vì
vậy, trong Phật Giáo, có nhiều pháp tu được hình thành từ trong nếp sống thường
nhật của thế gian, và cũng từ đó, Phật pháp hòa quyện với cuộc sống, với văn
hóa địa phương. Một trong những sự thích ứng này chính là truyền thống thờ cúng
Ông Bà với pháp hồi hướng công đức cho người thân, gồm cả quá cố cũng như hiện
còn.
Nhìn từ quan niệm tu tập, đức Phật
chỉ quan tâm đến sự giác ngộ giải thoát, cho nên hệ thống kinh điển căn bản vốn
không đề cập đến những việc hành xử của thế gian, đặc biệt những việc liên quan
đến sự xây dựng và củng cố mối ràng buộc tình cảm hay huyết thống. Chẳng hạn, một
bài kệ trong Kinh Tập (Sutta-Nipāta) thuộc Kinh Tiểu Bộ dạy:
Bỏ nhà sống kiếp vô gia
Cắt dây ràng buộc cửa nhà thôn
hương
Không tham, không ước vấn vương
Không tranh thua được thói thường
thế gian.[1]
Thế nhưng, xét từ quan niệm tình cảm
cũng như xã hội, mối quan hệ gia đình cần phải được duy trì và phát triển. Người
còn sống cần được chăm sóc phụng dưỡng, người quá cố cũng cần sự tưởng nhớ phụng
thờ. Chết không phải là hết, mà chỉ là sự chuyển tiếp giữa các trạng thái. Từ
buổi sơ khai, loài người có nhiều quan niệm về kiếp sau, nhưng tựu trung vẫn
cho rằng có một sự tiếp nối và duy trì mối quan hệ trong đời hiện tại. Chính vì
điều này cho nên việc hiếu nghĩa đối với người quá cố từ xưa đã được loài người
rất chú trọng.
Quan niệm về “kiếp sau” trong truyền
thống Bà-la-môn của Ấn độ cổ đại
Mặc dù không hình thành một hệ thống
rõ ràng về thế giới của cõi chết, nhưng rải rác trong bốn bộ Veda cũng có những
ghi chép giúp chúng ta hình dung được những nét căn bản về thế giới của những
người đã khuất theo quan niệm của người Ấn Độ thời xa xưa trước đức Phật. Ghi
chép sớm nhất về thế giới của cõi chết được tìm thấy trong Ṛg-veda,một tập hợp
gồm nhiều bài thơ (sūkta) dùng trong những nghi thức hiến cúng các vị thần. Ṛg-vedalà
một trong bốn bộ Veda và được xem là cổ nhất trong nền văn học của người Ấn Độ.
Theo những ghi chép tản mác trong sách này, người mới chết sẽ đi về một trong
hai thế giới: thế giới của các thiên thần (deva-loka) và thế giới của tổ tiên
(pitṛ-loka).[2]Chỉ có những người hiến cúng chư thiên và tu tập khổ hạnh trong
rừng mới có thể đi về thế giới của thiên thần, số đông còn lại sẽ đi con đường
tổ tiên. Quan niệm về hai thế giới này cũng có nhiều thay đổi theo thời gian bởi
chúng là đối tượng hướng đến của cả một hệ thống tín ngưỡng phức tạp trải dài
nhiều thế kỷ.
Theo Veda, thế giới của tổ tiên
(pitṛ-loka) được cai quan bởi vua Yama (Diêm Vương).[3]Ở đó, các vị tổ tiên
(pitṛ), bao gồm những người mới chết và cả những vị thủy tổ, được hưởng một đời
sống sung sướng vui vẻ. Tổ tiên là những bán thần, có năng lực thần thông, ban
phước cho những con cháu phụng thờ và hiến cúng họ, như ban cho con cháu nối
dõi, sự giàu có và hạnh phúc…[4] Có một mối quan hệ cộng sinh giữa thế giới tổ
tiên và những người còn sống. Con cháu còn sống hiến cúng tổ tiên để được tổ
tiên ban phước; tổ tiên ban phước duy trì sự nối truyền và thịnh vượng của con
cháu để con cháu hiến cúng giúp họ duy trì sự tồn tại của mình hoặc giúp họ
thăng lên các cõi trời. Mối quan hệ này cũng tương tự như mối quan hệ giữa loài
người với các vị trời, chỉ khác nhau ở phạm vi hẹp hơn. Có thể nói, thế giới của
tổ tiên (pitṛ-loka) trong Bà-la-môn giáo là tiên cảnh, là một thế giới được phản
ánh từ ước muốn của con người trên cõi thế.
Nghi thức śrāddha—lễ cúng cơm vắt
Trong thời kì đầu của Veda, người
ta tin rằng người mới chết lập tức đi vào thế giới của tổ tiên và được Yama trực
tiếp ban cho thân mới (śarīra). Nghi thức cúng cho người mới chết thời đó được
gọi chung là pitṛ-yajña (hiến cúng tổ tiên), nghi thức này được thực hiện ngay
sau lễ hỏa thiêu đi kèm với pháp ngữ “svadhā!”. Trải qua thời gian, cũng như
qua sự tương tác với các tôn giác khác, quan niệm về thế giới tổ tiên có nhiều
thay đổi. Thời gian về sau, những ghi chép trong Phạm Thư (brāhmaṇa) và Áo
Nghĩa Thư (upaniṣad), đặc biệt những nghi thức hiến cúng trong gia đình (gṛhya),
chỉ ra rằng người chết không đi vào thế giới tổ tiên ngay lập tức mà phải trải
qua một giai đoạn trung gian—một dạng thân trung ấm—được gọi là preta (người chết,
hồn ma, quỷ). Hơn nữa, người mới chết không còn nhận thân mới từ Yama để trở
thành tổ tiên mà thay vào đó, họ nhận được các bộ phận thân thể mới qua từng
giai đoạn từ các nghi thức hiến cúng của con cháu sau lễ tang. Chuỗi những nghi
thức này được thực hiện phức tạp gồm các nghi thức cúng cơm vắt (piṇḍa) và được
biết đến với tên gọi śrāddha. Những vắt cơm này tượng trưng cho các bộ phận của
thân thể.[5]
Thời gian để tiến hành đầy đủ các
nghi thức này kéo dài trong một năm, thậm chí còn được thực hiện tiếp tục nhiều
năm sau đó. Có nhiều loại śrāddha khác nhau cho từng giai đoạn của chu trình một
năm hiến cúng này. Nói chung, đối với một người vừa qua đời, người thân sẽ hiến
cúng mười một ngày liên tiếp; sau đó sẽ cúng hàng tháng vào ngày chết trong suốt
một năm; và cuối cùng là hiến cúng hàng năm vào ngày chết (giỗ).[6]Những nghi
thức này vẫn còn lưu hành trong xã hội Ấn Độ ngày nay.
Có hai điểm cần lưu ý ở đây. Thứ nhất,
nếu người thân không thực hiện đầy đủ các nghi thức śrāddha cho người quá cố
theo qui định, người quá cố sẽ không thoát khỏi trạng thái preta—một trạng thái
lang thang vô định trong sự đói, khát, và lạnh. Thứ hai, vai trò của các giáo
sĩ Bà-la-môn trong những nghi thức này: những vị Bà-la-môn này đại diện cho tổ
tiên, họ thọ dụng thức ăn nhân danh của tổ tiên; hay nói cách khác, những giáo
sĩ Bà-la-môn giữ vai trò như nhịp cầu trung gian để lễ vật hiến cúng đến được với
tổ tiên.[7]
Hồi hướng (pariṇāmanā)
Trở lại với mục đích của đề tài, hồi
hướng, hay nói đầy đủ là hồi hướng công đức, là một pháp hạnh được thực hành từ
rất sớm và rộng rãi trong Phật Giáo, cả Đại Thừa cũng như Tiểu Thừa. Đó là việc
một người đem công đức mà mình đã tạo được “chuyển” cho một mục đích hay đối tượng
nào đó với ước nguyện giúp mục đích được thành tựu hoặc giúp đối tượng đó được
an lành hay thậm chí giúp họ đạt được những mục đích tốt đẹp khác.[8]
Cái được hồi hướng hay chuyển ở đây
là công đức, tức là phước báo hay thiện căn của những thiện nghiệp đã được làm.
Kinh luận thường liệt kê ba việc bố thí, trì giới và thiền định là những việc
làm công đức căn bản; hoặc mở rộng hơn, từ ba việc này, triển khai thành nhiều
hạng mục thiện pháp khác nhau. Chẳng hạn, như luận Abhidhammattha-saṅgaha (Thắng
pháp tập yếu luận) liệt kê mười việc công đức như sau: [1] Bố thí, [2] trì giới,
[3] thiền định, [4] cung kính, [5] phục vụ, [6] hồi hướng công đức, [7] tùy hỷ
công đức, [8] nghe pháp, [9] giảng pháp, và [10] xây dựng chánh kiến.[9]Trong
Phật Giáo đại thừa, kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo dạy mười thiện nghiệp đạo, kinh
Phạm Võng Bồ Tát Giới dạy mười giới nặng và bốn mươi tám giới nhẹ.
Đối tượng của hồi hướng, tức mục
đích của pháp hồi hướng, tuy rất phong phú nhưng có thể thâu tóm trong ba phạm
trù sau:[10]
Hồi hướng cho mục đích giác ngộ giải
thoát: Giác ngộ giải thoát, thậm chí Phật quả, là mục đích tối hậu của người tu
Phật. Đức Phật vẫn thường dạy các đệ tử rằng không nên tham luyến phước báo thế
gian hay thiên giới mà phải hướng sự tu tập về quả vị giác ngộ giải thoát.
Trong Đại thừa, các bồ tát dù làm vô số công đức trong vô số kiếp, nhưng tất cả
đều hướng cho sự thành tựu quả vị Bồ đề. Bản thân Đức Phật Thích Ca cũng từ buổi
sơ đầu phát tâm cầu quả vị bồ đề trải qua vô số kiếp thực hành bồ tát hạnh mới
thành tựu được quả vị Đại Giác ngày hôm nay.
Hồi hướng cho thiện quả hữu lậu:
Hành giả hồi hướng công đức tu tạo được cho thiện báo trong tam giới luân hồi,
như cầu cho đời sống hiện tại an lành, đời sau sinh vào thiện xứ trong nhân
gian hoặc trên các cõi trời. Điều này thường được thực hành bởi các Phật tử tại
gia.
Hồi hướng cho người khác: Đó là việc
tu tạo công đức rồi hồi hướng cho người khác, giúp họ thoát khổ được vui. Phần
này là vấn đề mà bài viết này hướng đến để bàn luận.
Sự thay đổi trong quan niệm về thế
giới người chết trong Phật Giáo
Phật Giáo chủ trương giáo lý nghiệp,
tin vào luật nhân quả thiện ác báo ứng, mọi người đều là kẻ thừa tự nghiệp của
chính mình. Với quan niệm đó, rõ ràng niềm tin về thế giới tổ tiên của
Bà-la-môn không còn phù hợp với người Phật tử. Trong Tiểu Tạng Kinh (Nikāya và
A-hàm), Đức Phật đã nhiều lần khen ngợi sự hiếu thuận của con cái đối với cha mẹ,
và đặc biệt xem đó là một đức hạnh quan trọng của người tại gia.[11]Tuy nhiên,
Đức Phật cũng không ít lần phủ nhận vai trò hiến cúng để giúp người quá cố về với
thế giới tổ tiên.[12]
Như đã nói, mối quan hệ gia đình,
trong đó có vấn đề hiếu đạo, là không thể thiếu, đặc biệt đối với người tại
gia. Để thay cho tín ngưỡng về tổ tiên của Bà-la-môn giáo, trong Ngạ Quỷ Sự (Petavatthu),
mô típ người chết trải qua giai đoạn preta trung gian rồi đi vào thế giới tổ
tiên của Bà-la-môn giáo được thay thế bằng một mô típ mới phản ánh tính nhân quả
đạo đức của giáo lý nghiệp, đó là người tạo nhiều nghiệp ác, sau khi chết, sẽ
tái sinh vào thế giới ngạ quỷ (Pāli: peta, Sanskrit: preta), và người thân có
thể làm việc công đức để hồi hướng giúp người quá cố thoát khỏi cảnh khổ hiện tại.
Mặc dù các kinh khác của Nikāya không đề cập đến tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
theo kiểu này nhưng thực sự Ngạ Quỷ Sự, cũng thuộc tạng kinh Nikāya, rất nhấn mạnh
loại tín ngưỡng này.[13]
Ngạ Quỷ Sự, thuộc Tiểu bộ Nikāya,
là một tập hợp gồm những bài kinh ngắn do chính Đức Phật dạy. Nó bao gồm những
câu chuyện kể về người tạo ác nghiệp sau khi chết tái sinh làm ngạ quỷ và qua
đó để minh giải giáo lý nghiệp. Nội dung cũng như văn phong của Ngạ Quỷ Sự phảng
phất tính dân gian.
Trong Ngạ Quỷ Sự, mô típ mới về thế
giới của người sau khi chết không đề cập đến thế giới tổ tiên (pitṛ-loka) như
trong tín ngưỡng Bà-la-môn, giai đoạn preta trung gian chỉ còn giữ lại một phần
ý nghĩa. Với Phật Giáo, con người sau khi chết, sẽ tùy theo nghiệp mà tái sinh
vào những cảnh giới tương ứng, cho nên không có chuyện một thế giới vui sướng
như thế giới tổ tiên của Bà-la-môn giáo luôn luôn chờ đón sẵn. Preta giờ đây
cũng không còn chỉ là một giai đoạn thân trung ấm mà là một thế giới được định
vị cụ thể, đó là bên dưới thế giới loài người nhưng trên các ác đạo khác như
súc sanh hay địa ngục. Người sinh vào thế giới preta, trong Phật Giáo nó có
nghĩa là ngạ quỷ (quỷ đói), là do quả báo ác nghiệp đời trước. Một câu chuyện
điển hình cho mô típ tín ngưỡng về người quá cố của Phật Giáo trong Ngạ Quỷ Sự như
sau.
Chuyện mẹ kiếp trước của tôn giả
Xá-lợi-phất
Mẹ năm kiếp trước của tôn giả Xá-lợi-phất
là một phụ nữ Bà-la-môn giàu có nhưng tà kiến, ác độc. Sau khi chết, bà ấy đọa
làm ngạ quỷ chịu đủ thống khổ đói lạnh. Một hôm, bà nhớ về kiếp trước nên đến
tinh xá thăm tôn giả Xá-lợi-phất. Nhìn thấy nữ quỷ tiều tụy khổ sở, tôn giả hỏi
thăm. Bà liền kể về kiếp trước với những ác nghiệp mà mình đã tạo và xin tôn giả
bố thí cúng dường để hồi hướng công đức cho bà thoát khổ.
Tôn giả Xá-lợi-phất đem chuyện tâu
với vua Tần-bà-sa, nhà vua nguyện ý sắm sửa bốn tinh xá và nhiều vật dụng khác
để cho tôn giả làm pháp sự cúng dường. Sau khi nhà vua sắm sửa lễ phẩm đầy đủ,
tôn giả Xá-lợi-phất thỉnh Phật và chúng tăng đến để cúng dường rồi hồi hướng
công đức cho nữ quỷ đó.
Pháp sự hoàn thành, nữ quỷ liền
thoát khổ ngạ quỷ và sinh lên thiên giới.[14]
Chúng ta cũng tìm thấy mô típ tương
tự trong một số kinh Hán tạng, chẳng hạn kinh Địa Tạng.
Chuyện bà Duyệt-đế-lợi trong Kinh Địa
tạng
Bà Duyệt-đế-lợi mê tín tà thuyết,
phỉ báng Tam Bảo, sau khi chết, đọa vào địa ngục chịu khổ vô cùng. Con gái của
bà biết chắc mẹ mình sẽ đọa lạc ác đạo nên phát mãi nhà cửa, sắm sửa lễ phẩm
cúng dường tại tháp thờ Đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương. Do lòng thành kính
của người con gái, Đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương thị hiện hỏi thăm. Người con
gái thưa rằng muốn biết chỗ mẹ của mình tái sinh về. Đức Giác Hoa Định Tự Tại
Vương liền bảo cô gái trở về nhà ngồi ngay ngắn trì niệm danh hiệu của ngài thì
sẽ biết được chỗ mẹ mình sinh đến.
Cô gái làm theo lời dặn. Sau một
ngày một đêm, cô được dẫn đến chứng kiến cảnh khổ địa ngục. Gặp chúa quỷ, cô liền
hỏi thăm về mẹ của mình. Chúa quỷ hỏi mẹ của cô khi sống thường tạo nghiệp gì?
Cô gái thưa rằng mẹ mình là Duyệt-đế-lợi, tin theo tà kiến, phỉ báng Tam Bảo.
Chúa quỷ cho biết, nhờ phước hiến cúng của người con gái nên bà Duyệt-đế-lợi vừa
mới thoát chốn địa ngục và sinh lên thiên giới.[15]
Quan niệm hồi hướng công đức cho
người quá cố
Trong hai câu chuyện trên, giáo lý
nghiệp báo đã được biểu lộ rõ ràng. Mỗi người là kẻ thừa tự nghiệp của chính
mình, cho nên, người không tin Tam Bảo—đại diện cho chân lý đạo đức—không tuân
giữ giới tu thiện diệt ác chắc chắn sau khi chết sẽ tái sinh vào cảnh giới khổ
đau. Trái lại, người kính tin Tam Bảo, tu tạo công đức, thân hoại mạng chung sẽ
tái sinh về những cảnh giới an lành (như trong Thiên Cung Sự). Giáo lý nghiệp
đã khiến cho quan niệm về thế giới bên kia của Phật Giáo khác hoàn toàn với
quan niệm của Bà-la-môn giáo trước đây. Người tái sinh về đâu là do nghiệp lực
chứ không phải do việc hiến tế đầy đủ hay không.
Hai câu chuyện trên cũng gợi dấu
tích của một pháp hành mà hầu hết Phật tử trong các nước Đông – Đông Nam Á đã
và đang thực hành: hồi hướng công đức cho người quá cố. Ở đây chúng ta thấy phần
nào dấu tích tín ngưỡng tổ tiên của Bà-la-môn giáo với các nghi thức tế lễ
śrāddha đưa người thân quá cố lên thế giới tổ tiên. Mục đích của việc thực hành
nghi thức śrāddha trong Bà-la-môn giáo là giúp người thân quá cố thoát khỏi trạng
thái thân trung ấm preta để đến được thế giới tổ tiên. Việc hồi hướng công đức
cũng với mục đích cứu giúp người quá cố thoát cảnh khổ hiện tại và sinh về cảnh
giới an lành, về sau mở rộng cho cả người thân hoặc các chúng sinh khác trong
hiện tại mà tiêu biểu nhất là hồi hướng công đức cho hết thảy chúng sinh trong
tư tưởng Phật Giáo đại thừa.[16]Nhịp cầu trung gian trong nghi thức śrāddha là
những giáo sĩ Bà-la-môn, bởi họ tin rằng những vị Bà-la-môn là thanh tịnh cao
quý từ trong dòng máu, có quyền năng thực hành các nghi thức thiêng liêng. Với
hồi hướng công đức, Tam Bảo là phước điền cho người Phật tử gieo trồng công đức
bằng việc bố thí cúng dường (dāna) rồi “chuyển” công đức đó cho người quá cố.
Tuy nhiên, có một điểm khác nhau rất quan trọng giữa hai pháp hành mà qua đó
toát lên được tư tưởng chủ đạo trong khi thực hiện. Đó là, đạo lý nghiệp báo
mang tính đạo đức của Phật Giáo thay thế cho nghi thức mang tính tượng trưng của
Bà-la-môn giáo.
Giáo lý nghiệp và hồi hướng công đức
Theo giáo lý nghiệp, mỗi người phải
tự chịu hậu quả về hành vi của mình. Thế thì, câu hỏi đặt ra, giải thích thế
nào để hồi hướng công đức không trái với giáo lý nghiệp bởi trong pháp hành hồi
hướng công đức, người tạo công đức và người nhận công đức là hai người khác biệt?
Tất nhiên việc hồi hướng công đức
không nên hiểu theo ý nghĩa trực quan như một kiểu “chuyển nhượng”. Đó là một sự
tương tác và đồng cảm trong tâm thức. Đối với người cho, có thể nói hành động
chia sẻ công đức cho người khác là một nghĩa cử đầy từ bi và thân thiết, do đó
nó rất đáng tán dương và thấm nhuần đức hạnh. Với người nhận, khi thấy và hiểu
được ý nghĩa của nghĩa cử đó, những tâm lý tốt đẹp, đặc biệt là thiện tâm ‘tùy
hỷ’ (Sanskrit và Pāli: anumodanā), sẽ nảy nở trong tâm khiến cho bản thân họ
như được tắm gội trong suối nguồn công đức. Điều quan trọng để pháp hành hồi hướng
công đức có hiệu lực là người nhận phải trở thành một phần trong hành động tạo
công đức của người cho. Phải có sự đồng nhất bản thân người nhận với người cho
và hành động cho thì công đức mới sản sinh đối với người nhận. Chính tâm lý tùy
hỷ đã tạo nên sự thay đổi trong tâm người nhận, là yếu tố thiện nghiệp quan trọng
giúp họ thoát được ác báo đang giày vò bản thân.[17]
Ý nghĩa của pháp hành hồi hướng
công đức
Trong mười việc công đức đã nêu ở
trên, việc thứ sáu và thứ bảy là hồi hướng và tùy hỷ công đức. Trong mười hạnh
nguyện của bồ tát Phổ Hiền, nguyện thứ năm và thứ mười là tùy hỷ công đức và phổ
giai hồi hướng (tất cả những công đức tu tạo được đều đem hồi hướng cho hết thảy
chúng sinh). Nếu người cho đem tâm từ bi rộng lớn để hồi hướng công đức, người
nhận đem tâm lý tùy hỷ công đức để thọ nhận thì tất cả mọi thiện nghiệp đều được
tăng thêm, kết quả sẽ là vô lượng vô biên. Thế mới biết, pháp hành hồi hướng
công đức thật quan trọng trong đời sống của người tu Phật. Đó là một pháp tu
không những đem lại lợi ích về mặt tâm linh, mà còn có ý nghĩa to lớn về mặt xã
hội. Điều này lý giải vì sao nó được lưu hành rộng rãi trong mọi cộng đồng Phật
tử.
Hồi hướng công đức có ba ý nghĩa
quan trọng khi nhìn từ khía cạnh xã hội. Thứ nhất, đó là cách thức giúp người
Phật tử thực hiện được ước muốn giúp đỡ người thân để báo đáp những ân tình mà
họ đã nhận được, nhất là đối với cha mẹ quá cố. Đây cũng là hiếu đạo mà người
Đông – Đông Nam Á luôn luôn canh cánh trong lòng. Thứ hai, pháp hồi hướng công
đức giúp Phật Giáo dung hợp được những tín ngưỡng địa phương, chẳng hạn như tín
ngưỡng thờ cúng Ông Bà, tạo nên một nền văn hóa Phật Giáo mang nét riêng của từng
lãnh thổ, từng dân tộc. Thứ ba, duy trì và phát triển mối quan hệ huyết thống
trong gia đình cũng như mối quan hệ hỗ tương giữa cộng đồng Phật tử tại gia và
xuất gia, tạo điều kiện cho việc hoằng dương Chánh Pháp, đem lại lợi lạc cho đời.
THÍCH THANH HÒA
(Nguyệt San Giác Ngộ số 269, số đặc
biệt Vu Lan 2018)
Tham khảo:
Bechert, Heinz. "Buddha-Field
and Transfer of Merit in a Theravāda Source." Indo-Iranian Journal 35, no.
2-3 (1992): 95-108.
Bodhi, Bhikkhu. A Comprehensive
Manual of Abhidhamma: The Abhidhammattha Saṅgaha of Ācariya Anuruddha. Kandy:
Buddhist Publication Society, 2006.
———. The Connected Discourses of
the Buddha: A Translation of the Saṃyutta Nikāya. Somerville MA: Wisdom
Publications, 2000.
The Princeton Dictionary of
Buddhism. Buswell, Robert E., and Donald S. Lopez. UK: Princeton University
Press, 2014.
Gehman, Henry S. "Peta Vatthu:
Stories of the Departed." In The Minor Anthologies of the Pali Canon, Part
4. London: Luzac & Co., 1942.
Gombrich, Richard. "'Merit
Transference' in Sinhalese Buddhism: A Case Study of the Interaction between
Doctrine and Practice." History of Religions 11, no. 2 (1971): 203-219.
Holt, John C. "Assisting the
Dead by Venerating the Living: Merit Transfer in the Early Buddhist
Tradition." Numen 28, no. 1 (1981): 1-28.
The Hymns of the Ṛigveda:
Translated with a Popular Commentary.
Translated by Ralph T. H. Griffith. 2nd ed. 2 vols. Benares: E.J.
Lazarus and Co., 1896-1897.
Kinh Địa Tạng. Dịch bởi Tỷ kheo Trí Quang. Tp. Hồ chí minh:
NXB Tổng hợp tp. Hồ Chí Minh, 2010.
Krishma, Y. "The Doctrine of
Karma and Śrāddhas." Annals of the Bhandarkar Oriental Research Institute
66, no. 1/4 (1985): 97-115.
Langer, Rita. Buddhist Rituals of
Death and Rebirth: Contemporary Sri Lankan Practice and Its Origins. London;
New York: Routledge, 2007.
The Long Discourses of the Buddha:
A Translation of the Dīgha Nikāya. Translated by Maurice Walshe. Kandy:
Buddhist Publication Society, 1996.
Long, Jeffrey D. Historical
Dictionary of Hinduism. Lanham, Md.: Scarecrow Press, 2011.
Malalasekera, G. P. "'Transference
of Merit' in Ceylonese Buddhism." Philosophy East and West 17, no. 1/4
(1967): 85-90.
Minh Châu, Thích. Kinh Trường Bộ. Đại
Tạng Kinh Việt Nam. TP. Hồ Chí Minh: Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, 1991.
———. Kinh Tương Ưng Bộ. Đại Tạng
Kinh Việt Nam, 1993.
Pemarathana, Soorakkulame.
"Evolution of the Theravāda Buddhist Idea of 'Merit-Transference' to the
Dead, and Its Role in Sri Lankan Buddhist Culture." Buddhist Studies
Review 30, no. 1 (2013): 89-112.
Phương Lan, Trần. Ngạ Quỷ Sự. Tiểu
Bộ Kinh. Đại Tạng Kinh Việt Nam, 1999.
Saṃyutta Nikāya. Edited by M. Léon
Feer. Vol. III. London: Pali Text Society, 1975.
Sayers, Matthew R. Feeding the
Dead: Ancestor Worship in Ancient India. New York: Oxford University Press,
2013.
Schmithausen, Lambert. "Critical
Response." In Karma and Rebirth: Post Classical Developments, edited by
Ronald W. Neufeldt, 203-230. Delhi: Sri Satguru Publications, 1995.
Shastri, Dakshina Ranjan. Origin
and Development of the Rituals of Ancestor Worship in India. Calcutta, Allahbad,
Patna: Bookland, 1963.
Thi Ca La Việt Lục Phương Lễ Bái
Kinh[尸迦羅越六方禮經].
Hán Dịch bởi Tam Tạng An Thế Cao. Đại 01, số 16.
Thiện Sanh Kinh (Trường A-hàm
Kinh)[善生經].
Hán Dịch bởi Phật-đà-da-xá and Trúc Phật Niệm. Đại 01, số 01.
[1]Xem Saṃyutta Nikāya, ed. M. Léon
Feer, vol. III (London: Pali Text Society, 1975), 3: 9; Thích Minh Châu, Kinh
Tương Ưng Bộ(Đại Tạng Kinh Việt Nam, 1993), 433tt.
[2]The Hymns of the Ṛigveda:
Translated with a Popular Commentary, trans. Ralph T. H. Griffith, 2nd ed., 2
vols (Benares: E.J. Lazarus and Co., 1896-1897), vol. II: 514; Jeffrey D. Long,
Historical Dictionary of Hinduism(Lanham, Md.: Scarecrow Press, 2011), 100.
[3]Diêm Vương (Yama) xuất hiện
trong thời kỳ đầu của Veda như một vị vua trời cai quản những nguyên tắc trật tự
(ṛta). Tuy nhiên, trong những truyền thống sau này, trong đó có cả Phật Giáo,
Diêm Vương được quan niệm như một chúa ngục lo việc phán xử tội nhân. Xem John
C. Holt, "Assisting the Dead by Venerating the Living: Merit Transfer in
the Early Buddhist Tradition," Numen28, no. 1 (1981): 3.
[4]Matthew R. Sayers, Feeding the
Dead: Ancestor Worship in Ancient India(New York: Oxford University Press,
2013), 25.
[5]Feeding the Dead, 38; Dakshina
Ranjan Shastri, Origin and Development of the Rituals of Ancestor Worship in
India(Calcutta, Allahbad, Patna: Bookland, 1963), 1; Holt, "Assisting the
Dead by Venerating the Living: Merit Transfer in the Early Buddhist
Tradition."
[6]Shastri, Origin and Development
of the Rituals, 3.
[7]Sayers, Feeding the Dead, 71.
[8]Xem Robert E. Buswell and Donald
S. Lopez, The Princeton Dictionary of Buddhism(2014), mục "pariṇāmanā".
[9]Bhikkhu Bodhi, A Comprehensive
Manual of Abhidhamma: The Abhidhammattha Saṅgaha of Ācariya Anuruddha(Kandy:
Buddhist Publication Society, 2006), 209: Dāna sīla bhāvanā apacāyana
veyyāvacca pattidāna pattānumodana dhammassavana dhammadesanā diṭṭhijukammavasena
dasavidhaṃ hoti.
[10]Xem thêm Princeton Dictionary
of Buddhism, mục "pariṇāmanā".
[11]Xem Thích Minh Châu, Kinh Trường
Bộ, Đại Tạng Kinh Việt Nam (TP. Hồ Chí Minh: Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam,
1991), Kinh Giáo thọ Thi-ca-la-việt; The Long Discourses of the Buddha: A
Translation of the Dīgha Nikāya, trans. Maurice Walshe (Kandy: Buddhist
Publication Society, 1996), 461: Sigālaka sutta; Thiện Sanh Kinh (Trường A-hàm
Kinh) [善生經],
Phật-đà-da-xá and Trúc Phật Niệm dịch Hán, Đại 01, số 01, 70a; Thi Ca La Việt Lục
Phương Lễ Bái Kinh [尸迦羅越六方禮經], Tam Tạng An Thế Cao dịch Hán, Đại 01, số 16,
250c.
[12]Chẳng hạn, trong kinh Tương Ưng
Bộ, Đức Phật lấy câu chuyện một người ném hòn đá xuống hồ nước rồi tập hợp mọi
người lại cầu nguyện, gọi hòn đá hãy nổi lên để ví dụ cho trường hợp người tạo
nghiệp ác, sau khi chết được các Bà-la-môn tế lễ để đưa người ấy đi lên thế giới
tổ tiên. Xem Bhikkhu Bodhi, The Connected Discourses of the Buddha: A
Translation of the Saṃyutta Nikāya(Somerville MA: Wisdom Publications, 2000),
IV, 1336: Asibandhakaputta.
[13]Trong kinh Hán tạng, chúng ta
tìm thấy một số kinh có cùng đề tài này như: Kinh Vu Lan Bồn, Kinh Địa Tạng.Đối
với Kinh Vu Lan Bồn, mặc cho những tranh cãi về tính chính thống của nó, bản
kinh vẫn lưu hành rộng rãi trong cộng đồng Phật Giáo Đông Á.
[14]Xem Trần Phương Lan, Ngạ Quỷ Sự,
Tiểu Bộ Kinh (Đại Tạng Kinh Việt Nam, 1999); Henry S. Gehman, "Peta
Vatthu: Stories of the Departed," trong The Minor Anthologies of the Pali
Canon, Part 4(London: Luzac & Co., 1942), 169.
[15]Kinh Địa Tạng, Tỷ kheo Trí
Quang dịch (Tp. Hồ chí minh: NXB Tổng hợp tp. Hồ Chí Minh, 2010), 101-113.
[16]Xem thêm: Heinz Bechert,
"Buddha-Field and Transfer of Merit in a Theravāda Source,"
Indo-Iranian Journal35, no. 2-3 (1992); Richard Gombrich, "'Merit
Transference' in Sinhalese Buddhism: A Case Study of the Interaction between
Doctrine and Practice," History of Religions11, no. 2 (1971); Lambert
Schmithausen, "Critical Response," trong Karma and Rebirth: Post
Classical Developments, ed. Ronald W. Neufeldt (Delhi: Sri Satguru
Publications, 1995).
[17]Xem G. P. Malalasekera,
"'Transference of Merit' in Ceylonese Buddhism," Philosophy East and
West17, no. 1/4 (1967): 86.
Nguồn: phapuyen.blogspot.com