Nguyên Lạc
DỊCH THOÁT THƠ NGUYỄN DU (2)
Phần II
DỊCH THOÁT THƠ
Lời
cẩn báo: Qua phần I tác giả đã trình bày sơ lược cách dịch thoát thơ chữ Hán
Nguyễn Du theo lối riêng của mình.
Đó chỉ là ý kiến chủ quan, chắc
chắn có nhiều khuyết điểm, xin các cao nhân bỏ qua nếu có gì không hợp ý. Mọi
người đều có riêng "hệ quy chiếu" về thưởng lãm, xin hãy trân trọng
nhau.(NL)
Phần
II này tôi xin được ghi ra đây vài câu, bài dịch thoát tiêu biểu thơ chữ Hán của
thi hào Nguyễn Du
DỊCH
THOÁT HAI CÂU
1.
Cố
quốc sơn hà khan lạc nhật,
Tha
hương thân thế thác phù vân
(THU
NHẬT KÝ HỨNG - Nguyễn Du)
Thoát
dịch:
Quê
hương ngút mắt. chiều phương ấy
Chở
hết mây ơi. nỗi sầu này!
2.
Trù
trướng thâm tiêu cô đối ảnh
Mãn
sàng trê vũ bất kham thinh
(TỐNG
NHÂN - Nguyễn Du)
Thoát
dịch:
Đêm
thăm thẳm. sầu riêng với bóng
Chiếu
chăn nhầu. mưa động thốn tâm!
3.
Phu
tọa nhàn song tửu nhãn khai
Lạc
hoa vô số hạ thương đài
(ĐỐI
TỬU - Nguyễn Du)
Thoát
dịch:
Lặng
ngồi độc ẩm bên song cửa
Mắt
lệ người nhìn lá hoa rơi!
DỊCH
THOÁT BỐN CÂU
Nhân
đọc thơ chữ HÁN của đại thi hào NGUYỄN DU (1765 - 1820) tôi xin được ghi ra đây
4 câu thơ trong bài KÝ MỘNG của cụ.
Về
bài thơ KÝ MỘNG: Người đàn bà (mỹ nhân) Nguyễn Du tưởng nhớ chính là người vợ
hiền đã mất. Thương thay!
Khá
thương cho những ai cùng tâm trạng với Nguyễn Du, vì hoàn cảnh chiến tranh, vì
công vụ , vì tù tội, vì trốn lánh... mà không thể nào cầm tay vợ hiền nghe nàng
dặn dò lúc nàng giã biệt cõi đời.
Bài
thơ dưới đây viết trong bối cảnh khi tác giả đứng bên dòng sông hoài niệm tại
quê nhà, nhìn dòng sông và nhớ đến người vợ hiền đã khuất núi tại quê của nàng
.
Trong
bài này Nguyễn Du dùng lại một điển tích
Tàu rất nổi tiếng.
Truyện
kể:
"Biết
một vị vua vì quá nhớ người thiếp yêu, một đạo sĩ làm phép giúp vua có thể tìm
gặp lại người xưa. Ông bày phép cho treo
hai cái màn, một màn bên trong có vua ngồi và màn bên kia thắp nến, người đẹp
hiện sẽ về bên trong. Qua ánh nến lung linh trong đêm vắng, cộng nỗi "nhớ
người xưa" vô cùng khiến vua đặt hết niềm tin vào bùa phép. Vua đã
"thực sự thấy" người thiếp yêu hiện về trong bức màn sa bên kia. Nhà
vua được đêm tâm tình, thủ thỉ cùng vợ"
(Laiquangnam)
Tôi
xin mạn phép dịch thoát bốn câu cuối
(toàn bài 24 câu) gây cảm xúc nhất (riêng tôi), coi như niềm trân trọng
và tưởng nhớ đến người xưa.
KÝ
MỘNG
...
Mỹ
nhân bất tương kiến
Nhu
tình loạn như ti
Không
ốc lậu tà nguyệt
Chiếu
ngã đan thường y
(Nguyễn
Du)
Thoát
dịch:
GHI
QUA MỘNG
...
Giai
nhân. người hỡi đâu rồi?
Tình
sầu loạn mối. rối bời như tơ
Nhà
không. xuyên ánh trăng mờ
Chiếu
qua áo mỏng. thấu ta nỗi niềm!
DỊCH
THOÁT TOÀN BÀI
Nguyên
Lạc xin được ghi ra đây và xin phép dịch thoát vài bài thơ của đại thi hào NGUYỄN
DU (1765 - 1820) mà tôi thích nhất.
Vì
là dịch thoát, xin các bạn đừng đặt nặng phần đối chữ trong các cặp 3 - 4 và 5
- 6, cùng vị trí câu (theo tôi nghĩ, chỉ làm gò bó cảm nhận thơ), chỉ nên chú trọng về HỒN THƠ. Mong thay.
1. Đây là nguyên tác bài thơ TỐNG NHÂN
TỐNG
NHÂN
Hương
Cần quan đạo liễu thanh thanh
Giang
bắc giang nam vô hạn tình
Thượng
uyển oanh kiều đa đố sắc
Cố
hương thuần lão thượng kham canh
Triều
đình hữu đạo thành quân hiếu
Trúc
thạch đa tàm phụ nhĩ minh
Trù
trướng thâm tiêu cô đối ảnh
Mãn
sàng trê vũ bất kham thinh
(Nguyễn
Du)
Thoát
dịch:
TIỄN
NGƯỜI ĐI
Hương
Cần đường ấy liễu xanh xanh
Cuối
ngọn đầu sông chan chứa tình
Ngự
uyển oanh vàng ganh dáng vẻ
Cố
hương rau mọn sắc tô canh
Triều
đình phải đạo anh lo vẹn
Quê
mẹ bội thề tớ mất danh
Thăm
thẳm đêm sầu riêng với bóng
Biếng
ngồi mưa rớt trúng ngay tâm
2.
Đây là nguyên tác bài thơ ĐỐI TỬU
ĐỐI
TỬU
Phu
tọa nhàn song tửu nhãn khai
Lạc
hoa vô số hạ thương đài
Sinh
tiền bất tận tôn trung tửu
Tử
hậu thùy kiêu mộ thượng bôi
Xuân
sắc tiệm thiên hoàng điểu khứ
Niên
quang ám trục bạch đầu lai
Bách
kì đãn đắc chung triêu túy
Thế
sự phù vân chân khả ai
Thoát
dịch:
ĐỐI
MẶT CÙNG LY RƯỢU
Tựa
song. mắt rượu. ngồi trông
Hoa
rơi lả tả. phủ lòng thảm xanh!
Sống. không cạn chén trọn tình
Chết.
ai tri kỷ rượu nghiêng rưới mồ?
Chim
bay. xuân đổi hững hờ
Tháng
năm rõ hiện. trắng bờ tóc ai!
Trăm
năm. ví được say dài
Sự
đời mây nổi. não thay kiếp người!
3.Đây là nguyên tác bài thơ THU NHẬT KÝ HỨNG
THU
NHẬT KÝ HỨNG
Tây
phong tài đáo bất quy nhân,
Đốn
giác hàn uy dĩ thập phần.
Cố
quốc sơn hà khan lạc nhật,
Tha
hương thân thế thác phù vân.
Hốt
kinh lão cảnh kim triêu thị,
Hà
xứ thu thanh tạc dạ văn.
Tự
sẩn bạch đầu khiếm thu nhập,
Mãn
đình hoàng diệp lạc phân phân.
(Nguyễn
Du )
Thoát
dịch:
GHI
LẠI CẢM HỨNG NGÀY THU
Gió
tây vừa chạm khách tha hương,
Cái
lạnh từ đâu bỗng nhập xương.
Quê
mẹ trông vời chiều ngút mắt,
Mây
ơi ta gởi nỗi niềm thương!
Đêm
trước gió thu về réo gọi,
Thất
kinh già tới bóng trong gương.
Mỉm
cười đầu bạc gom góp vụng,
Lá
vàng lả tả rụng đầy sân!
LỜI
KẾT
Qua
trên là phần dịch thoát thơ chữ Hán của đại thi hào Nguyễn Du, chắc có nhiều
khuyết điểm. Tuy nhiên, xin được xem đây như
tấm lòng trân trọng và niềm tưởng nhớ đến bậc danh tài của Việt Nam thân
yêu.
Nguyên
Lạc
-----------------------------------------------------
Tham
khảo: Thơ chữ Hán của Nguyễn Du - Thi Viện, Laiquangnam.