Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Monday, April 2, 2018

ĐÊM TÂM SỰ - Thơ - Hoàng Yên Linh

Tác giả Hoàng Yên Linh

 Đêm Tâm Sự

Ơi bạn cùng tôi cạn ly này
Bên đồi sương phủ trắng sơn khê
Chim rừng xao xác bay về tổ
Biết ở nơi nào chốn cố quê.

Đếm mãi thời gian mà ngóng đợi

Thôi đành mây nước cũng buông xuôi
Rượu không đủ ấm đời cô quạnh
Ngậm ngùi cũng chỉ bạn với tôi.

Bạn nhé cạn thêm ly rượu đắng

Đường đời ai đếm được nhục vinh
Giấc mơ  ta ngỡ đời Hạng Võ
Một thuở tung hoành chuyện chiến chinh...

Mai mốt đường đời ta gặp lại

Bọn mình cùng cạn nốt men say
Chẳng lẽ vầng trăng chia đôi mãi
Lối về sáng tỏ ánh trăng soi.
                                   Hoàng Yên Linh

READ MORE - ĐÊM TÂM SỰ - Thơ - Hoàng Yên Linh

HOA TÍM - Chùm ảnh - Chu Vương Miện







READ MORE - HOA TÍM - Chùm ảnh - Chu Vương Miện

CHẾT CŨNG CHỈ NHƯ GIẤC NGỦ - Thơ: Phạm Ngọc Thái - Lời bình: Việt Phương


Nhà thơ Phạm Ngọc Thái


CHẾT CŨNG CHỈ NHƯ GIẤC NGỦ     
    
Không than vãn, lòng chẳng hề hối tiếc
Nắm tro tàn. Thôi thế, đã là xong!
Cũng chỉ như giấc ngủ mơ màng
Đời sống vậy, đủ rồi! Em yêu mến.

Nghiệp đã làm xong, chẳng còn chi vương vấn
Tình cũng tàn năm tháng kiếp phôi pha
Thì em ơi! Ta nằm xuống dưới mồ
Thanh thản chết, có gì đâu phải nghĩ.

Hồn thi sĩ xin mang thơ gửi đời làm tri kỷ
Chốn trần gian sẽ ngợp áng thơ ta
Chỉ chia tay có thân xác thôi mà
Tình yêu ta còn muôn đời bất tử!

Cõi thế gian: âu cũng kiếp đoạ đầy phận số
Tiếc làm chi? Sống mãi chỉ mệt thân
Mãn nguyện rồi, cần chi nữa phân vân
Ta nằm xuống hoá mình vào “kinh thánh”!

Ta đã yêu em suốt đời trong hư ảnh
Dù có thời cũng sung sướng, đê mê
Nhưng tình em khác gì những chiếc lá bay kia
Để năm tháng dài ta hoang ru nơi bến lạnh.


"Tình và tiền"!
Tiếng nói đó làm trái tim đàn bà hưng phấn
Phụ nữ cả thế giới này, họ quí như nhau…
Nhưng nếu ít tiền, tình cũng hóa cô liêu!
Giọt lệ thi nhân

anh rỏ lên những trang thơ đời làm liều thuốc ngủ…



                                 Thơ - Phạm Ngọc Thái



Lời bình:  MỘT BÀI THƠ TRĂNG TRỐI 


     Trước khi từ giã cõi đời ở Gành Ráng (Qui Nhơn), thi nhân Hàn Mặc Tử đã để lại những lời trăng trối:

               Ta trút linh hồn giữa lúc đây

               Gió sầu vô hạn nuối trong cây

               Còn em sao chẳng hay chi cả

               Xin để tang anh đến vạn ngày

                                (Trút linh hồn)

     Còn Xuân Diệu thì nhắn nhủ lại đời, rằng:

              Hãy để cho tôi được giã từ

              Vẫy chào cõi thực để vào hư

              Trong hơi thở chót dâng trời đất

              Cũng vẫn si tình đến ngất ngư

     Pushkin một thi hào vĩ đại – mặt trời thi ca của nước Nga đã viết:

              Nơi đàn thơ thiêng liêng ta không chết!

              Hồn ta còn sống mãi chẳng tiêu tan

              Và trên đời dù chỉ còn một thi nhân

              Danh tiếng ta vẫn còn vang mãi mãi…

     “Chết cũng chỉ như giấc ngủ” của Phạm Ngọc Thái cũng thuộc dạng một  bài thơ trăng trối như thế!

             Hồn thi sĩ xin mang thơ gửi đời làm tri kỷ
             Chốn trần gian sẽ ngợp áng thơ ta
             Chỉ chia tay có thân xác thôi mà
             Tình yêu ta còn muôn đời bất tử!

                                        (đoạn thơ ba)

     Thi nhân thản nhiên để chuẩn bị cho mình đi vào cõi vĩnh hằng. Bài thơ đạt đến sự chí lí về cả nghĩa và tình. Ngay mấy câu mở đầu, ta thấy tâm trạng nhà thơ coi cái chết rất nhẹ nhàng:

            Không than vãn, lòng chẳng hề hối tiếc
            Nắm tro tàn. Thôi thế, đã là xong!
            Cũng chỉ như giấc ngủ mơ màng
            Đời sống vậy, đủ rồi! Em yêu mến.

     Mặc dù nhà thơ viết: Nắm tro tàn. Thôi thế, đã là xong! /- Nghe có vẻ như rũ bỏ? nhưng không phải. Sở dĩ lòng Người sẵn sàng ra đi thanh thoát vậy, ở trong đoạn thơ hai đã giải thích:

             Nghiệp đã làm xong, chẳng còn chi vương vấn
             Tình cũng tàn năm tháng kiếp phôi pha
             Thì em ơi! Ta nằm xuống dưới mồ
             Thanh thản chết, có gì đâu phải nghĩ.

    Vâng, thêm một lần nữa ta thấy Phạm Ngọc Thái đón nhận cuộc ra đi vĩnh cửu… thật ung dung. Bởi, anh biết sự nghiệp thi ca cùng tên tuổi anh để lại cho đời cũng như nền văn học nước nhà, sẽ không bao giờ chết. Khi anh có nằm xuống dưới mồ, vào cõi thiên thu… thì đâu có phải thế là kết thúc? đâu phải “tất cả đã là xong”? – cũng như nhà thơ Nga Pushkin từng nói:

               Nơi đàn thơ thiêng liêng ta không chết!

    Thi nhân coi cuộc ra đi đó chỉ như là một giấc ngủ mơ màng. Bài thơ còn đi sâu lý giải về… đời, như kinh phật nói là “cõi tạm”:

              Cõi thế gian: âu cũng kiếp đọa đầy phận số
              Tiếc làm chi? Sống mãi chỉ mệt thân

              Mãn nguyện rồi, cần chi nữa phân vân
              Ta nằm xuống hoá mình vào “kinh thánh”!

                                               (đoạn thơ thứ tư)

     Một quan niệm phật giáo. Nói về hai chữ “kinh thánh” – Trong bài “Khúc xuân tuổi bảy mươi”, tác giả cũng viết hai câu thơ:

               Đi giữa mùa xuân

                                  đã thấy vĩnh cửu ở trên đầu 
               Cõi Phật rước ta về đất thánh…

     Nghĩa là, cuộc đi này của thi nhân không phải để… chết, mà Người hóa mình vào “kinh thánh” đó thôi!

     Cuộc đời gồm cả “tình yêu và cuộc sống” – Bài thơ tràn sang lĩnh vực “tình”:

                Ta đã yêu em suốt đời trong hư ảnh
                Dù có thời cũng sung sướng, đê mê

                                               (câu 17-18)

     Trong đời thường từ tư tưởng, tình cảm đến đời sống thực… ai cũng quan tâm đến tiền bạc, nhưng với người phụ nữ thời hiện đại thì tiền bạc chỉ đạo họ về mọi phương diện: kể cả lĩnh vực tình ái - Cái quan niệm “một mái nhà tranh, hai trái tim vàng” là cổ xưa lắm rồi! Thời nay, tuy cũng có nhưng rất hiếm.Tình thì tình, nhưng họ yêu trước hết phải là… tiền! “tiền” gần như là một chủ nghĩa, một lý tưởng sống của người phụ nữ bây giờ. Bởi vậy,  những chàng thi sĩ với tâm hồn lãng mạn, mộng mơ… chỉ giàu tình mà nghèo tiền, rất dễ bị rơi vào “bến cô liêu”! Thi nhân viết:

                "Tình và tiền"!
                Tiếng nói đó làm trái tim đàn bà hưng phấn
                 Phụ nữ cả thế giới này, họ quí như nhau…
                 Nhưng nếu ít tiền, tình cũng hóa cô liêu!

     Tức là, những tình yêu chỉ xây dựng trên nền tảng theo “tiếng gọi của trái tim” như của các nhà thơ, hầu hết trước sau cũng… tan vỡ! Nên Người mới than:

                 Nhưng tình em khác gì những chiếc lá bay kia
                 Để năm tháng dài ta hoang ru nơi bến lạnh…

                                                               (câu 19-20)

     Thơ tình Phạm Ngọc Thái phần lớn được sáng tác từ các mối tình xưa. Thi nhân sống lại trong thơ bằng những kí ức của tình yêu.

                 Anh trở về như Na-pô-lê-ông

                                               Đi tù ngoài hoang đảo

                 Ông dành thời gian viết hồi kí thuở tung hoành

                 Anh lấy tình xưa xây giấc mộng thi nhân

                 Chỉ tiếc nuối tình sao ngắn ngủi.

                                              (Vĩnh biệt cuộc tình)

     Anh đã nói như vậy. Cái thời mà người chồng là một nhà thơ nghèo, được bà vợ vẫn thủy chung như vợ của Tú Xương và Nguyễn Khuyến, là chuyện xửa xưa! Thủa ấy, Tú Xương từng tự sự trong bài thơ “thương vợ” nổi tiếng của ông rằng:

                 Quanh năm buôn bán ở mom sông,

                 Nuôi đủ năm con với một chồng.

                 Lặn lội thân cò khi quãng vắng,

                 Eo sèo mặt nước buổi đò đông.



                 Một duyên hai nợ âu đành phận,

                 Năm nắng mươi mưa dám quản công.

                 Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

                 Có chồng hờ hững cũng như không!

     Giờ, xin phân tích đôi nét về quan hệ giữa đời sống thực của Phạm Ngọc Thái với thi ca - Tôi không biết nhiều đến hoàn cảnh gia đình trong mối quan hệ vợ chồng của anh? nhưng xét nghĩ, với một con người đam mê văn chương, nhất là thơ ca như anh… để có được một gia đình yên ấm ở xã hội hiện đại này, quả thật là khó !? Nghe nói, sau này tuy vẫn sống với nhau nhưng hai người thường hay xẩy ra chuyện xích mích về chuyện tiền nong - mặc dù, cũng có một giai đoạn tác giả sống rất êm ái, yên ấm với gia đình. Chẳng thế, thời kì đó anh đã sáng tác cả một tập thơ nói về vợ con - Đó là tập “Có một khoảng trời” xuất bản năm 1990, sau một chuyến công tác ở Đức về. Có những bài thơ rất hay nói về người vợ trẻ của mình, như bài “Tiếng hát đời thường”:

                    Trong một phố nghèo có người vợ trẻ                                                
                     Vẫn đón con đi, về... như thường lệ                                                
                     Vóc em thanh cũng thể mùa xuân                                               
                     Đôi mắt em: đôi mắt ấy màu đen.

     Hay là:

                   Miền đã theo tôi vào cuộc Trường Sơn
                   Hành quân rừng già, võng treo sườn gió...
                   Ai biết chiều nay người vợ trẻ
                   Đứng mong chồng bên đứa con thơ
                   Giọt lệ cháy xót lòng mang sắc xanh thu!

     Rồi bài “Có một khoảng trời”:

                   Cái khoảng trời khi anh và em đã cách xa
                   (xa thật đấy mà cũng gần thật đấy)
                   Trong đau đớn anh hoá bờ cát cháy

                   Thổi về phương em giữa chiều gió nổi


                   Hạt vô tư còn lại… những tàn tro!

     Tình cảm của nhà thơ với gia đình, quê hương - đặc biệt với người vợ, rất đẹp! Anh không ngớt lời ca ngợi qua một số bài khác nữa: Nỗi trăn trở người đi tìm vàng, Bài ca xứ sở, Trăng quê, Mùa tuyết quê người…

     Song cũng phải nói: giai đoạn này tác giả còn đang công tác ở ngành ngoại thương, lại đi nước ngoài - cuộc sống chắc cũng khá! Chưa bị mối quan hệ về tiền bạc chi phối nhiều… như khi anh đã lao hết mình vào sự nghiệp thơ phú, văn chương?
     Mảng sáng tác duy nhất anh nói về người vợ, chỉ ở mỗi tập thơ “có một khoảng trời” đầu tay ấy! Còn cả một khối lượng hàng trăm bài thơ tình viết sau này, không thấy có bài thơ nào Phạm Ngọc Thái nói về người vợ của mình nữa. “em” trong các bài thơ tình của anh, toàn là em của cái thuở mộng mơ xưa, hoặc cảm xúc với một người nào đó… chứ không phải là vợ.

     Thí dụ như bài “Người đàn bà trắng”:

                     Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu
                     Anh cũng không làm chàng Trương Chi
                                                           suốt đời chèo sông vắng
                     Ta không đi theo Con Đường Lông Ngỗng Trắng
                     Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau.

     Anh Trần Đức - Nguyên CB Viện ngôn ngữ & Văn hoá dân gian, khi bình bài này đã phân tích:

     “Đoạn thơ đã triết lý về những mâu thuẫn giữa tình yêu và cuộc sống của nhà thơ với Người Đàn Bà Trắng. Đó cũng là một nghịch lý cuộc đời: Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu /- Còn anh cũng không đầy mình để làm mãi cái anh chàng Trương Chi suốt đời chèo thuyền trên con sông quạnh vắng, cô đơn! Rồi tương tư nàng Mỵ Nương mà chết. Hay cái con-đường-lông-ngỗng-trắng mà nàng Mỵ Châu đã rắc cho chàng Trọng Thủy theo tìm - Thần tượng thì rất đẹp, nhưng để cuối cùng chàng cũng nhảy xuống biển mà chết, hoá thành ngọc trai giữ tình son sắt với nàng. Nó bi ai quá!
     Cái hay của khúc triết lý trong bài thơ Người Đàn Bà Trắng là đã được viết như đời. Dẫu mối tình bị tan vỡ phải chia lìa năm tháng, nhưng tình thơ không kết thúc bằng sự bi thảm. Đôi trai gái vẫn phải sống và tồn tại, dù là theo chiều gió cuốn cuộc đời. Phải chăng, đó cũng là một cuốn tiểu thuyết "cuốn theo chiều gió" như bao bi kịch tình-đời trên bờ bến nhân gian?”.

     Nghĩa là, bài thơ được tác giả cảm xúc sáng tác cũng xuất phát từ trong cuộc tình đời của mình? nhưng chưa phải là giai đoạn tiến đến hôn nhân gia đình - Như thi sĩ Xuân Diệu từng viết:

                    Tình chỉ đẹp khi còn dang dở…

     Mối quan hệ cuộc sống và thi ca của nhà thơ vẫn ở trong một thế giới tưởng tượng, đẹp như mơ…  chứ chưa vấp phải cái mâu thuẫn giữa “tình và tiền”!

     Tôi thí dụ thêm bài nữa:

                   Tình để lại vết thương không lành được
                   Soi mặt hồ in mãi bóng thời gian
                   Em hiền dịu trái tim từng tha thiết
                   Người con gái anh yêu nay hóa khói sương tan.

                                                (Anh vẫn ở bên Hồ Tây)  

     Đấy, tuy bị lỡ dở nhưng họ vẫn tha thiết với nhau như thế. Đến mức vì  “tình” trái tim có thể tan vỡ! Thì đâu có phải vì tiền? Nhà thơ kết luận:

                  Thế đó, em ơi! Tình qua không trở lại
                  Xế chiều rồi mà máu tim chảy mãi không thôi
                  Em có nghe gió Tây Hồ đang thổi
                  Anh ở đây, vẫn bên Hồ Tây mây trôi...

     Bởi vậy, thơ tình Phạm Ngọc Thái hoàn toàn xuất phát từ sự rung động trái tim (ngoài phạm trù tiền)… có thể chỉ trong khoảnh khắc mà cảm xúc thành thơ, hoặc của một mối tình dang dở, xa nhau lòng vẫn tha thiết nhớ về nhau. Tan vỡ mà vẫn đẹp!

     Giờ xin quay trở lại với bài “Chết cũng chỉ như giấc ngủ”: Nó không chỉ còn là tự sự bản thân nữa, mà đã mang cả ý nghĩa thời đại, trong mối quan hệ giữa tiền bạc với đời sống xã hội… để phản án nhân sinh quan tác giả.

     Bài thơ ôm trùm rất nhiều mặt của cả riêng tư và tính hiện thực xã hội trong đó, súc tích và sâu sắc. Không ít chỗ khúc triết và hay, đột biến có câu thơ thật xuất sắc, như:

                   Ta nằm xuống hoá mình vào “kinh thánh”!

     Huyền bí và hiển linh. Có số người còn cho rằng, hai câu thơ cuối bài là hay nhất:

                   Nhưng nếu ít tiền, tình cũng hóa cô liêu!
                   Giọt lệ thi nhân

                   anh rỏ lên những trang thơ đời làm liều thuốc ngủ…

      Bài thơ đã được khép lại ở đó!

          Việt Phương

READ MORE - CHẾT CŨNG CHỈ NHƯ GIẤC NGỦ - Thơ: Phạm Ngọc Thái - Lời bình: Việt Phương

PHẢN BIỆN BÀI “BÌNH THƠ KHÔNG BÀN THI PHÁP” CỦA PHẠM ĐỨC NHÌ - Châu Thạch

Tác giả Châu Thạch.
    
              



PHẢN BIỆN BÀI “BÌNH THƠ KHÔNG BÀN THI PHÁP” CỦA PHẠM ĐỨC NHÌ   
                                                            Châu Thạch
                                                                                            
Vừa qua nhà thơ Phạm Đức Nhì có viết một bài “Bình thơ không bàn thi pháp” trong đó ông kết tội Châu Thạch, Nguyễn Bàng và Bùi Đồng là đã bình thơ không bàn thi pháp, theo lời ông là làm cho “thơ hay thơ dở đánh lộn sòng”.
Nhiều thi hữu điện thoại với tôi, nói rằng anh Nhì muốn huậy để cho mình nổi danh thôi. Họ yêu cầu tôi cứ nín lặng vì ai đúng ai trật thì đã có công luận phê phán. Việc anh Nhì huậy cho nổi danh thì tôi không tin lắm vì anh đã có danh nhiều rồi, đem cái danh ấy mà tranh chấp với tôi, thứ con dế dưới cỏ, thì chỉ tự hạ mình xuống chớ nổi con khỉ gì.
Tôi đã đồng ý nín câm luôn. Thế nhưng nghĩ đi nghĩ lại anh Nhì muốn chém tôi mà không chịu chém thẳng, lại đem một thi sĩ thật hiền hòa ở Tây Ninh ra chém mới thật là oan cho anh ấy. Thi sĩ Hà Nhữ Uyên, một người tôi chưa từng quen biết, có thơ hay được thi hữu miền Nam mến mộ, lại bị anh Nhì đặt vào cái cẩu đầu trảm chỉ vì cái tội là tôi đồng cảm với thơ anh ấy và viết lời bình cho bài thơ “Thềm Xưa Em Đợi Người về”. Bởi vậy tôi xin có đôi lời phản biện để không phải bênh tôi mà biện hộ cho Hà Nhữ Uyên, người đã vì tôi mà lên đoạn đầu đài.
Trước hết nhà thơ Phạm Đức Nhì nói loanh quanh về các định nghĩa thi pháp là gì của người xưa rồi cuối cùng anh tự định nghĩa sau đây:
Thi pháp (poetics) là phương pháp, quy tắc làm thơ - sử dụng vần, nhịp điệu (và các phương tiện thẩm mỹ khác của thơ) nối kết các con chữ thành một thế trận để chuyển tải thông điệp và cảm xúc của thi sĩ đến độc giả.” 
Tôi cũng đồng ý hoàn toàn với anh Nhì định nghĩa nầy nhưng tôi nghĩ theo định nghĩa nầy thì thằng cha nào bình thơ mà “không bàn thi pháp” được nhỉ? Người nào đã viết bình thơ mà có thể không bàn về việc tác giả “Sử dụng vần, nhịp điệu, nối kết các con chữ thành một thế trận để chuyển tải thông điệp và cảm xúc của thi sĩ đến độc giả”. Anh Phạm Đức Nhì nói Châu Thạch, Nguyễn Bàng, Bùi Đồng “chỉ bình tán ý tứ mà không bàn thi pháp”. Vậy cái ý tứ đó có phải là “sử dụng vần, nhịp điệu, nối kết các con chữ thành một thế trận để chuyển tải thông điệp, cảm xúc” không nhỉ? Chẳng có nhà thơ nào mà không xử dụng những cái ấy để đưa ý tứ của mình vào. Cho nên một nhà bình thơ “bình tán ý tứ” của bài, chính là nhận xét cái tài “sử dụng vần, nhịp điêu, con chữ” của họ hay đến đâu hoặc dở đến đâu. Anh Nhì nói chúng tôi “bình tán ý tứ không bàn thi pháp” là chính anh đã “đánh lộn sòng con chữ” chớ không phải chúng tôi. Một bài thơ mà không có ý, tứ và không biết sử sụng ý tứ đó cho hài hoà, độc đáo thì là bỏ. Khi chúng tôi khen một bài thơ hay là chúng tôi khen tác giả có tài thi pháp, có ý tứ hay của thơ và có cả ý tứ trong sáng tác để kết cấu bài thơ gây cảm xúc cho người.
Bây giờ xin bước qua biện hộ cho bài thơ của Hà Nhữ Uyên.
Bài thơ như sau:
THỀM XƯA EM ĐỢI NGƯỜI VỀ 

Em đợi người bên Thềm Xưa trầm lắng
nhặt bâng quơ hạt nắng ngủ trên bàn
ly phin đá nhẩn nha từng giọt đắng
nhặt hoài mong lạc mười ngón tay đan.
.
Em khắc khoải đợi một dòng tin nhắn
thèm giật mình khi nghe tiếng chuông reo
chiếc điện thoại cũng tảng lờ im ắng
ném niềm vui như chiếc lá bay vèo.
.
Mắt ngân ngấn “Người ơi” - em khẽ gọi
đợi tiếng người trầm ấm phía bên kia
mà: “… rất tiếc, số này không kết nối”
ngỡ trời tình ai thổi tắt trăng khuya.
.
Buồn vây ráp đêm dài thêm sợi tóc
tựa vào đâu ấm áp một bờ vai?
em cố dặn: thôi đừng mau mắt khóc
dẫu muộn phiền có thể chẳng nguôi khuây.
.
Người gieo lại nửa hồn nghe ngơ ngẩn
nửa trên tay em bồng nắng về rừng
như thạch thảo bên tường mưa ướt cánh
nghe con chim góa bụa hót rưng rưng.
.
Em khờ khạo xới lên miền cổ tích
như mối đùn trăm nỗi nhớ về nhau
khi yêu dấu môi hôn chưa nhàm nhạt
ai cam tâm hờ hững tự khi nào?
            HÀ NHỮ UYÊN

- Phạm Đức Nhì chê:
1/ Nhịp điệu: Mỗi câu 8 chữ, mỗi đoạn 4 câu, đọc lên nhịp điệu đều đặn tẻ nhạt. Tác giả tự trói buộc mình trong quy luật của thơ mới nên tâm thế, phong thái không được tự do. 
- Châu Thạch biện hộ:
Xin hãy đọc đoạn thơ trong bài Ave Mari của Hàn Mạc Tử:
Như song lộc triều nguyên ơn phước cả
Dâng cao dâng thần nhạc sánh hơn trăng
Thơm tho bay cho đến cõi Thiên Đường
Huyền diệu bến thành muôn linh trọng thể
Toàn bộ bài của Hàn Mạc Tử đều mỗi đoạn 4 câu và mỗi câu 8 chữ. Bài thơ nầy đã trở thành bất hủ.

- Phạm Đức Nhì chê:
2/ Vần: Vần gieo cả 1/3 lẫn 2/4 kỹ lưỡng (6 đoạn 12 cặp vần, không bỏ sót cặp nào), có nhiều cặp gieo chính vận nên hội chứng nhàm chán vần rất nặng, đọc 2 đoạn đã thấy giọng “ầu ơ”. Thêm vào đó, tác giả lại còn chơi cả yêu vận (vần lưng)
- Châu Thạch biện hộ:
Mời đọc bài thơ “Trên Đường Về” trong tập thơ Điêu Tàncủa Chế lan Viên có 7 đoạn và 14 cặp vần gieo 1/3 lẫn 2/4 không bỏ sót cặp nào.
Xin đơn cử một đoạn thôi:
Đây những tháp gầy mòn vì mong đợi
Những đền xưa đổ nát giữa thời gian
Những sông vắng lê mình trong bóng tối
Những tượng Chàm lở lói rỉ rên than
Bài thơ nầy cũng cũng đã trở nên biểu tượng của thơ.

- Phạm Đức Nhì chê:
3/ Dòng chảy của tứ thơ: Bài thơ gồm 6 đoạn, mỗi đoạn 4 câu diễn tả một ý riêng biệt; từ đoạn trước sang đoạn sau không bắt vần nên tứ thơ đứt đoạn, phân tán, không có dòng chảy. 
- Châu Thạch biện hộ:
Đọc bài thơ Tràng Giang của Huy Cận:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp, 
Con thuyền xuôi mái nước song song. 
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả; 
Củi một cành khô lạc mấy dòng. 
.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu, 
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều 
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót; 
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu. 
.
Bèo giạt về đâu, hàng nối hàng; 
Mênh mông không một chuyến đò ngang. 
Không cầu gợi chút niềm thân mật, 
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. 
.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, 
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa. 
Lòng quê dợn dợn vời con nước, 
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Đọc bài thơ Tràng Giang của Huy cận ta thấy có 4 đoạn, mỗi đoạn diễn tả không những một ý riêng biệt mà còn một cảnh riêng biệt. nhưng tất cả cũng chỉ mục đích là miêu tả Trường Giang. Từ khổ thơ trước qua khổ thơ sau cũng không hề bắt vận. Ở đây bài thơ “Thềm xưa em đợi người về” mỗi đoạn tỏ bày một tâm tư của em, và tất cả cũng để nói lên nỗi lòng của người ngồi bên “Thềm xưa em đợi anh về”. Thiết tưởng liên kết của các ý thơ còn sít sao và trôi chảy hơn Tràng Giang nữa.

- Phạm Đức Nhì chê:
4/ Cảm xúc: Cảm xúc tạo được ở đoạn nào nằm tại đoạn đó, không chảy thành dòng để có sự tiếp nối “sóng sau dồn sóng trước” tạo cao trào, hình thành hồn thơ. Cảm xúc phần lớn ở tầng 1 (câu, chữ hay), rất ít ở tầng 2 (thế trận), hoàn toàn không có cảm xúc ở tầng 3 (cao hứng, nổi điên). Với vóc dáng nàyThềm xưa em đợi người về chắc chắn không thể có hồn thơ.
- Châu Thạch biện hộ:
Khổ 1: Em đợi chàng với sự nóng lòng hiện lên trên cử chỉ
Khổ 2: Em khắc khoải mong chờ và giật mình mỗi khi tưởng có tin anh
Khổ3: Măt ngấn lệ, em gọi tên anh những đến trăng khuya cũng tắt.
Khổ 4: Em cố nhủ lòng thôi đừng phiền đừng khóc nhưng muộn phiền vẫn chẳng nguôi khuây.
Khổ 5: Anh gieo vào lòng em nỗi sầu như hoa Thạch Thảo bên tường mưa ướt, như con chim hóa bụa hót rưng rưng.
Khổ 6: Em khờ khạo nên để mối đùn trăm nối nhớ. Ngược lại anh thì cam tâm hờ hững tự bao giờ.
Bài thơ có một nối kết rõ ràng từ khổ 1 cho đến khổ 6. Cảm xúc “sóng sau dồn sóng trước’ và mỗi lúc một cao độ hơn. Cuối cùng tác giả dùng hình ảnh tổ mối đùn lên để nói về nỗi nhớ thật là sống động đến độ tuyệt vời.
Sở dĩ người viết dùng  thơ của các nhà thơ đã đi vào văn học sử để so với thơ của Hà NHữ Uyên chỉ để chứng minh tác giả đã khôn khéo xử dụng thi pháp như những tài danh đã xử dụng. Không phải thi pháp ấy làm cho bài thơ dỡ như Phạm Đức Nhì đã kết luận.  Ngoài ra người viết tất nhiên, không dám đem thơ Hà Nhữ Uyên để so về mặt cao thấp  với các thi tài đã vang danh một thời.

       Tóm lại theo tôi, đây là một bài thơ hay. Mà dẫu tôi có bình sai, anh Phạm Đức nhì thấy không hay thì cũng chẳng nên đem búa ra để đập bài thơ của một tác giả ra như thế, mà lại phê phán quá bất công với nhà thơ ấy. Tôi thấy anh Nhì còn lấy những tiêu chuẩn thơ của chính anh tự đặt như một vị thầy để chê thơ anh Phạm Đức Tùng không phải là thơ nữa.
Tôi nhớ trước đây trong “Câu Chuyện Văn Chương” nhà thơ Lê Mai Lĩnh có nói như sau về việc Phạm Đức Nhì đã bình “Tống Biệt Hành” của Thâm Tâm:
 Thế nhưng vừa qua, người anh em tôi, nhà thơ Phạm Đức Nhì đã chọn một cách rất “không bình thường” để phân tích, mổ xẻ TƯỢNG ĐÀI THÂM TÂM TỐNG BIỆT HÀNH:
Ông đã đem BÚA TẠ, KỀM KINGSIZE, ĐỤC KINGSIZE, XÀ BENG KINGSIZE , THUỐC NỔ QUEEN, BAO TAY PRINCESS,,,,
Ông TRỤC, KÉO, LÔI PHO TƯỢNG ĐÀI THÂM TÂM TỐNG BIỆT HÀNH ra khỏi TRÁI TIM NHỮNG NGƯỜI YÊU của THÂM TÂM TỐNG BIỆT HÀNH
Sau đó nhà thơ Lê Mai Lĩnh nói thêm như sau:
 “Thưa anh nhà thơ PHẠM ĐỨC NHÌ:
1/Anh nói: TÔI DÀNH SỰ PHÁN XÉT SAU CÙNG CHO ĐỘC GIẢ.
Vậy tôi đề nghị anh NÊN NÓI LỜI XIN LỖI VỚI ANH CHÂU THẠCH. Bài của nhà phê bình CHÂU THẠCH rất HÀN LÂM, NGƯỜI LỚN.
2/ Mặc dù anh đã HÀN GẮN NHỮNG VẾT ĐỤC ĐẼO lên PHO TƯỢNG TỐNG BIỆT HÀNH, những sự MẤT MÁT VẪN CÒN, NIỀM ĐAU CŨNG CÒN.
Vậy anh nên viết bài tạ lỗi với độc giả của T.Vấn & Bạn Hữu, rằng anh đã chạm vào tình cảm YÊU THƠ của họ dành cho THẦN TƯỢNG THÂM TÂM
.”
Hôm nay Châu Thạch tôi cũng xin dùng câu đó để nói lại với anh Phạm Đức Nhì nhưng không phải biểu anh xin lỗi tôi hay xin lỗi anh Nguyễn Bàng, anh Bùi Đồng mà chỉ khuyên anh nên xin lỗi nhà thơ Hà Nhữ Uyên vậy

                                                              CHÂU THẠCH 

READ MORE - PHẢN BIỆN BÀI “BÌNH THƠ KHÔNG BÀN THI PHÁP” CỦA PHẠM ĐỨC NHÌ - Châu Thạch