NHẠC TIỀN CHIẾN 1930-1945
LÊ THIÊN MINH KHOA
Kỳ 2:
NHẠC HÙNG và NHẠC ĐỎ TIỀN CHIẾN
Phác thảo bìa sách “9 thập kỷ ca khúc tân nhạc Việt Nam”.
NHẠC HÙNG TIỀN CHIẾN 1930-1945.
|
Nhóm Hoàng Mai Lưu (trái sang): Huỳnh
Văn Tiểng, Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ
|
Thực ra, giới nghiên cứu có nói đến thể loại hành khúc xuất hiện trong giai đoạn nầy, mà ít đề cập đến dòng nhạc hùng 1930-1945. Nhưng thực tế đã tồn tại một dòng nhạc hùng tiền chiến với nội dung kêu gọi lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, yêu lịch sử vẻ vang dân tộc. Giai điệu là hành khúc với nhịp đi hùng tráng, phù hợp với nhịp đi tập thể, bài hát cộng đồng.
Trong giai đoạn nầy, dòng nhạc hùng gần gũi với dòng nhạc đỏ (nhạc cách mạng) và giao hòa với nhau vào cuối giai đoạn.
Dòng nhạc hùng được đẩy lên cao trào bởi các nhóm nhạc gồm các nhạc sĩ tài hoa có xu hướng dân tộc: Đồng Vọng, Tổng Hội Sinh Viên, nhất là khi nhóm Hoàng Mai Lưu được thành lập (1941).
Nhóm Đồng Vọng được Hoàng Quý thành lập vào năm 1939, với các nhạc sĩ tên tuổi:, Phạm Ngữ, Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước, Văn Cao, Canh Thân, Tô Vũ, trong 3 năm: 1943-1945 đã sáng tác và phát hành hành 12 tập nhạc, mỗi tập có từ 8 đến 12 bài với khoảng 70 nhạc phẩm, trong đó có nhiều tình ca, nhưng chủ yếu là nhạc hùng có nội dung ca ngợi đất nước, ca ngợi truyền thống anh hùng của dân tộc. Trong đó, riêng Hoàng Quý viết một loạt ca khúc: Trên sông Bạch Đằng, Nước non Lam Sơn, Tiếng chim gọi đàn, Bóng cờ lau, Gọi bạn lên đường, Lời vọng ngàn xưa, Xuân về, Đêm trong rừng …
|
|
So với Đồng Vọng thì nhóm Tổng Hội Sinh viên và nhóm Hoàng Mai Lưu mang tính chính trị nhiều hơn. Nhóm Tổng Hội Sinh Viên được thành lập bởi nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, khởi đầu là nhóm sinh viên có khả năng văn nghệ ở Hà Nội trong đó nhiều sinh viên miền Nam, nên sau đó ca khúc của nhóm lan tỏa ra khắp nơi. Trong một bài viết, nhạc sĩ Lê Thương cho rằng: "...Từ 1943 đến 1945 thì Tổng Hội Sinh Viên đã chế ngự phong trào Tân nhạc và gây những ảnh hưởng sâu đậm chưa từng có”. Nhóm Tổng Hội Sinh Viên chú trọng đặc biệt đến việc dùng Tân nhạc trong việc đấu tranh chính trị chống Pháp và Nhật. Lưu Hữu Phước cùng với các sinh viên trong Tổng Hội đã tung ra nhiều ca khúc giá trị khơi dậy lòng yêu nước trong dân chúng, đặc biệt là trong giới học sinh, sinh viên. Những ca khúc đó thường lấy đề tài lịch sử ca ngợi những chiến công, những anh hùng dân tộc, đặc biệt phải kể đến những bản nhạc của Lưu Hữu Phước. Nhiều ca khúc như Tiếng gọi sinh viên, Hồn tử sĩ, Hờn sông Gianh... của ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử tân nhạc Việt Nam.
Góp công lớn trong nhạc hùng tiền chiến là nhóm văn nghệ yêu nước Hoàng Mai Lưu gồm 15 người đủ các bộ môn nghệ thuật: thi ca, nhạc, kịch họa mà mũi nhọn và có tiếng vang nhất là âm nhạc, nên ngày nay nhắc đến Hoàng Mai Lưu công chúng thường nghĩ đến ca khúc của nhóm nầy. Hoàng Mai Lưu là họ của ba sáng lập viên: Huỳnh (Hoàng) Văn Tiếng, Mai Văn Bộ và Lưu Hữu Phước, gợi lên hình tượng bông mai vàng bay tỏa hương thơm, ra đời vào mùa hè 1941 tại Sài Gòn. Trong giai đoạn nầy, nhiều ca khúc yêu nước và cách mạng của nhóm được sáng tác, phát hành và lưu diễn khắp nơi. Có thể kể thêm các ca khúc của họ, ngoài những nhạc phẩm nêu trên: Bạch Đằng giang(1941), Ải Chi Lăng (1942), Bài hát của thiếu nữ Việt Nam 1942), Việt nữ gọi đàn (Bài hát của phụ nữ Việt Nam- 1942) của Lưu Hữu Phước với lời của Mai Văn
|
NS Nguyễn Mỹ Ca |
Bộ; Bài hát suối Lồ Ồ (1943), Bài hát của đoàn hùng (1943-1945), Bài hát suối Lồ Ồ (1943), Bài hát của đoàn hùng (1943-1945), Xếp bút nghiên (1944) của Lưu Hữu Phước với ca từ của Huỳnh Văn Tiếng; và những ca khúc khác với nhạc của Lưu Hữu Phước và lời của cả nhóm: Hội nghị Diên Hồng (1942), Âu ca Việt Nam (1944), Hờn sông Gianh (1944)… (Năm sáng tác và tên của đồng tác giả với Lưu Hữu Phước trong các ca khúc trên dẫn từ cuốn “Hoàng Mai Lưu & Các ca khúc trong phong trào âm nhạc cách mạng” của Huỳnh Văn Tiếng & Bùi Đức Thịnh- NXB Trẻ, 2002). Như vậy, Lưu Hữu Phước là thành viên chủ chốt của cả 3 nhóm nhạc yêu nước kể trên và là sáng lập viên của 2 nhóm nhạc: Tổng Hội Sinh viên, Hoàng Mai Lưu, là người có đóng góp lớn lao trong việc hình thành phát triển dòng nhạc hùng Việt Nam.
Gắn bó cùng hai nhóm Tổng hội và Hoàng Mai Lưu, ở Nam bộ có Nguyễn Mỹ Ca, cháu nội của Nguyễn Tri Phương, người được xếp hạng thứ 953 trong Danh sách Nhạc sĩ nổi tiếng trên thế giới, ngoài tình ca nổi tiếng Dạ khúc, đã sáng tác nhiều hùng ca yêu nước như: Đến trường, Vui đi học, Chiêu hồn nước..., trong đó thành công và có tiếng vang nhất là Chiêu hồn nước.
Nhạc sĩ Phạm Duy góp vào dòng nhạc hùng bài Gươm tráng sĩ (1944), La Hối với Gió thiêng liêng, Võ Đức Thu với Quyết tiến, Một ngày đã qua…
Đỗ Nhuận cũng đóng góp cho dòng nhạc nầy với Trưng Vương (1939- ca khúc đầu tay lúc tuổi 17) và liên ca khúc: Chim than, Lời cha già, Đường lên ải Bắc của vở ca cảnh Nguyễn Trãi- Nguyễn Phi Khanh được ông viết trong 2 năm 1940, 1941.
NHẠC ĐỎ TIỀN CHIẾN 1930-1945.
|
NS Phan Huỳnh Điểu |
Ca khúc cách mạng hình thành và phát triển từ khi có phong trào yêu nước do Đảng Cộng Sản lãnh đạo. Theo nhiều tư liệu, trên văn bản “khai sinh”, ca khúc cách mạng được hình thành từ năm 1930, với bài Cùng nhau đi hồng binh viết theo điệu March của tác giả Đinh Nhu, khi bị tù ở Côn Đảo. Do biểu tượng của cách mạng trong quang phổ chính trị là màu đỏ, nên người ta gọi nhạc cách mạng là nhạc đỏ.
|
NS Tô Hải (phải) |
Các ca khúc “nhạc đỏ” thường động viên tinh thần chiến đấu của quân dân, phục vụ kháng chiến, khích lệ tình yêu lý tưởng dân tộc chủ nghỉa và lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đồng thời có những ca khúc trữ tình cách mạng, thể hiện tình yêu quê hương đất nước hoặc cổ vũ lao động cống hiến, tinh thần lạc quan, yêu đời và có tính cộng đồng. Các ca khúc nhạc đỏ thường mang tính lý tưởng hóa và lãng mạn hóa cao, nhưng khác với dòng nhạc tiền chiến có tính lãng mạn tách rời đời sống, thường không có không gian hoặc thời gian cụ thể, nhạc đỏ đặt tính lãng mạn, lý tưởng hóa gắn với cuộc sống xã hội, có không gian và thời gian cụ thể, và thực tế hóa.
Từng bước đi của ca khúc cách mạng là sự phản ánh trung thực những thành tựu của lịch sử cách mạng Việt Nam. Nhạc đỏ (nhạc kháng chiến, nhạc cách mạng Việt Nam) đã tồn tại và phát
triển qua 5 giai đoạn- thời đoạn của Tân nhạc VN : Tiền chiến (1930-1945); Kháng chiến chống Pháp (1946- 1954); Kháng chiến chống Mỹ (1854-1975); Hậu chiến (1975- 1985); Đương thời (1986- đến nay).
Hình tượng người chiến sĩ cách mạng Việt Nam được phản ánh rõ nét nhất trong các ca khúc cách mạng giai đoạn này. Họ sẵn sàng chiến đấu, hy sinh cho độc lập của Tổ quốc, cho hạnh phúc của nhân dân.
Qua những hình tượng ấy, có thể thấy cách thức lựa chọn thể hành khúc của những nhạc sĩ- chiến sĩ là hoàn toàn phù hợp và đúng đắn. Bởi vì, hành khúc là phương tiện nghệ thuật hữu hiệu nhất để tuyên truyền cổ động cho cách mạng. Do đó, thể hành khúc chiếm vị trí chủ đạo trong dòng ca khúc cách mạng Việt Nam giai đoạn nầy.
|
NS Đỗ Nhuận. |
Sáng tác âm nhạc dạng hành khúc có xuất xứ từ châu Âu, nhưng khi vào Việt Nam, hành khúc đã nhanh chóng hòa nhập và trở nên quen thuộc trong hoạt động văn hóa nghệ thuật của người dân Việt Nam. Có được điều đó là do những người cộng sản làm văn nghệ đã ý thức được bản sắc văn hóa và sức mạnh tiềm tàng của dân tộc, vậy nên trong tác phẩm, họ biết kết hợp những âm điệu gần gũi, quen thuộc trong âm nhạc cổ truyền với những âm điệu mới hùng tráng.
Ca khúc cách mạng đã thể hiện đúng bản chất văn hóa hai chiều của con người Việt Nam: một chiều tiếp thụ từ văn hóa truyền thống, một chiều tiếp nhận từ văn hóa âm nhạc nước ngoài.
|
NS Nguyễn Văn Tý. |
Trong giai đoạn 1930-1945, những biến cố của lịch sử- xã hội đất nước luôn là động lực thúc đẩy các nhạc sĩ viết nên những ca khúc cách mạng. Khi Mặt trận Việt Minh chính thức thành lập (19.5. 1941), nhiều nhạc sĩ, nhóm nhạc đã gia nhập Mặt trận, hoặc chịu ảnh hưởng của Mặt trận đã sáng tác nhiều ca khúc cách mạng và yêu nước như: như: Không khuất phục, Cờ Việt Minh, Hò la, Côn Lôn (Vương Gia Khương); Tam bình (Trần Văn Út), Phất cờ Nam tiến (Hoàng Văn Thái); Thăng Long hành khúc ca, Tiến quân ca (1944- Văn Cao); Tiếng gọi thanh niên (Lưu Hữu Phước, lời: Hoàng Mai Lưu); Lên đàng (Lưu Hữu Phước- Huỳnh Văn Tiểng); Hát giang trường hận (sau đổi tên là Hồn tử sĩ) của Lưu Hữu Phước; Diệt phát xít (Nguyễn Đình Thi); Mười chín tháng tám (Xuân Oanh); Sa trường hành khúc, Cảm tử quân (1944- Hoàng Quý); Việt Nam phục quốc (Thẩm Oánh)… Trong đó, có những ca khúc trở thành quốc ca, hội ca, đoàn thể ca, nghi lễ ca. Như Tiến quân ca trở thành quốc ca của nước Việt Nam; Tiếng gọi thanh niên trở thành Thanh niên hành khúc, bài hát chính thức của tổ chức Thanh niên Tiền phong, sau này trở thành Tiếng gọi công dân, quốc ca của Việt Nam Cộng hòa
|
NS Xuân Oanh |
với lời được sửa lại; Lên đàng trở thành bài hát chính thức của Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam; Hồn tử sĩ được dùng trong các lễ tang theo nghi thức nhà nước của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và cũng được Quân lực Việt Nam Cộng hòa sử dụng trong các nghi thức lễ tang quân đội.
Trừ Cùng nhau đi hồng binh (1930- Đinh Nhu), các ca khúc đỏ trên đều được sáng tác sau ngày 19 tháng 5 năm 1941, ngày Mặt trận Việt Minh chính thức thành lập đến khi Cách mạng tháng Tám thành công. Điểm chót của cao trào ở Bắc bộ là ca khúc Mười chín tháng tám (19.8.1945) của Xuân Oanh và ở Nam bộ là Tám mươi năm (Bài hát của nông dân- lời: Huỳnh Văn Tiếng) của Lưu Hữu Phước do một nhóm 3 người vừa đi vừa hát đã lôi cuốn hàng ngàn người đi giành chính quyền trong ngày 25.8.45, ngày Tổng khởi nghĩa ở Sài Gòn.
Từ năm 1943, trong gian trong bị tù ở nhà lao Hải Dương, rồi đưa lên Hỏa Lò và sau bị đày lên Sơn La, Đỗ Nhuận đã viết nhiều bài hát cách mạng như: Chiều tù, Côn Đảo, Hận Sơn La, Tiếng gọi tù nhân, Viếng mồ tử sĩ, Du kích ca... và sau khi được trả tự do, ông tiếp tục tiếp tục hoạt động cách mạng và sáng tác nhiều bài hát và được phổ biến khá rộng biến khá rộng rãi thời bấy giờ: Quảng Châu công xã, Nhớ chiến khu (1945)…
Những ca khúc đỏ nầy không những phản ánh hiện thực xã hội lúc bấy giờ, mà còn khẳng định dấu son trên đường phát triển của dòng ca khúc cách mạng VN.
PHÂN CỰC VÀ GIAO THOA GIỮA CÁC DÒNG NHẠC TIỀN CHIẾN
|
NS La Hối. |
Trong quá trình hình thành, phát triển của 9 thập kỷ ca khúc tân nhạc Việt Nam, tùy theo giai đoạn, các dòng nhạc, các xu hướng trào lưu âm nhạc có khi cùng song song tồn tại, có khi đối lập nhau, có khi vừa phân cực vừa giao thoa với nhau, bổ sung hỗ trợ lẫn nhau, có khi hòa nhập vào nhau, hợp lưu lại với nhau… Trước hết là sự phân cực và giao thoa giữa 3 dòng nhạc Việt trong giai đoạn tiền chiến 1930- 1945:
Do sự khác biệt về nhân vật trữ tình, đối tượng trữ tình, nội dung phản ánh và cả giai điệu của ca khúc mà phân định thành ba dòng nhạc: nhạc hùng, nhạc đỏ, nhạc tiền chiến. Nhưng ba dòng nhạc khác nhau nầy trong quá trình hình thành, đồng hành tồn tại và phát triển thường giao thoa với nhau. Rõ rệt nhất là sự gần gũi nhau giữa dòng nhạc đỏ (cách mạng) và dòng nhạc hùng (yêu nước). Hai dòng nhạc nầy về giai điệu chủ yếu là hành khúc, về nội dung ca khúc, chúng gặp nhau ở 2 điểm là dân tộc và đấu tranh, nhất là vào cuối giai đoạn, khi Mặt trận Viêt Minh ra đời (1941), nhiều nhạc sĩ nhạc hùng tham gia vào phong trào Việt Minh và trở thành chiến sĩ Cách mạng hoặc chịu ảnh hưởng của Mặt trận. Khi đó, dòng nhạc hùng gần như hòa nhập vào dòng nhạc đỏ (Nên phải xác định chính xác thời điểm bản nhạc được viết, mới xếp loại đúng dòng nhạc của nó, mà có rất nhiều ca khúc, các nhà nghiên cứu âm nhạc không thống nhất về
|
|
năm sáng tác!). Vì lúc nầy 2 dòng nhạc hòa vào nhau nên có nhiều ca khúc xếp vào dòng nhạc nào trong 2 dòng nhạc đó, nhạc hùng và nhạc đỏ, cũng được, như các bản nhạc của Lưu Hữu Phước và nhóm Hoàng Mai Lưu: Tiếng gọi sinh viên, Hồn tử sĩ, Bạch Đằng giang, Ải Chi Lăng, Hội nghị Diên Hồng, Hờn Sông Gianh... Còn nhạc hùng và nhạc tiền chiến dù khác nhau về giai điệu (một bên là trữ tình, nhẹ nhàng và một bên là hành khúc) và nhân vật trữ tình (một bên là cái ta- công dân và một bên là cái tôi- cá nhân), nhưng trong đối tượng trữ tình có một nội dung giống nhau là đề tài quê hương. Trước 1946, có những nhạc sĩ sáng tác cả 3 dòng nhạc: Tô Vũ (Hoàng Phủ), Văn Cao, Hoàng Quý… Còn viết cả 2 dòng nhạc thì nhiều. Nhạc tiền chiến và nhạc hùng có: Thẩm Oánh, Phạm Duy, Canh Thân, Phạm Ngữ, Nguyễn Mỹ Ca, La Hối…; nhạc hùng và nhạc đỏ là có: Lưu Hữu Phước và nhóm Hoàng Mai Lưu… Đặc biệt là Đỗ Nhuận có “bước chuyển” sáng tác 2 dòng nhạc nầy trong hai thời đoạn khác nhau của cuộc đời mình (trước và trong- sau khi bị tù, 1943).
LÊ THIÊN MINH KHOA
(Trích trong cuốn sách “9 THẬP KỶ CA KHÚC TÂN NHẠC VIỆT NAM”- nghiên cứu, nhận định- Lê Thiên Minh Khoa- trang 16-21 và 175-176, sắp xuất bản, 2018).
-----------------
Nguồn ảnh: Internet.