Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Sunday, May 20, 2018

CHÙM THƠ CHU VƯƠNG MIỆN VỀ PHAN ĐÌNH PHÙNG VÀ LỊCH SỬ



         


PHAN ĐÌNH PHÙNG

Nguyên tác chữ Việt
nước Việt ngàn năm chẳng cúi đầu
lúa vàng ngun ngút tận nương dâu
hỡi phường Bạch Quỉ quân ăn cướp
lớp lớp trôi thây sóng dạt cầu
vách núi gươm vàng ghi dấu sử
đôi dòng tâm huyết gửi đơì sau
chí trai ngang doc trời mây tỏa
ta vẫn kiên gan đến bạc đầu
                    Chu Vương Miện

Bản chuyển ngữ qua Trung văn
cổ lai Việt tộc bất đê đầu
hòa thử lương điền ngọa bích châu
Bạch quỉ quân quan tề thổ phỉ
Lang Sa thi xú tận tân châu
bán sơn bảo kiếm đề huân sử
nhât phiến băng tâm đạt sở cầu
hồng hộc tung hoành ư tứ hải
tang bồng vĩ chí vĩnh  thiên thâu
                       Nguyễn Văn Đệ
(Trích trong tập truyện Phía Mặt Trời Mọc của Chu Vương Miện,
Thái Độ xuất bản năm 1968 ở Miền  Nam Việt Nam)


NON NƯỚC

bán sơn bảo kiếm đề huân sử
nhất phiền băng tâm đạt sở cầu
-
vách núi gươm vàng ghi dấu sử
đôi dòng tâm huyết gửi đời sau
Kinh Tương mấy thủa Ngô Sở Việt
lưu vực Trường Giang một  Phong Châu
mở nước mang mang từ Lưỡng Quảng
phương nam lúa ngát rợp xanh mầu
18 chi Hùng trên Bạch Hạc
nối dòng dân dệt cửi nuôi trâu
từng bầy chim Lạc bay ven núi
ngàn xưa lồng lộng tới ngàn sau
tổ tiên xưa vốn tiên rồng hoà hợp
Bách Việt bao đời trầu bám cau
theo cha lên núi trồng khoai bắp
theo mẹ về xuôi thả lưới câu
tiến thẳng về Nam nơi Phú Quốc
độ dài Minh Hải tới Giao Châu
gió bụi bao lần bay trên nước
lửa cháy tràn lan sập mái lầu
đất nước chia ra làm mấy mảnh
mấy miền Tượng Quận - Ái - Hoan Châu
vận nước ách trời trùm dân tộc
xích xiềng gian khổ ngập Ô Lâu
ngàn năm đằng đẵng trăm năm nạn
hết vàng tới trắng giống y nhau
phá Tống bình Chiêm còn đâu đó
Bình Nguyên Sát Thát giải Lục Đầu
mười năm chống giặc Minh ròng rã
đất nước thanh bình ngát ruộng dâu
giang sơn bây chừ điêu linh quá
chả lẽ bỏ đi ? đi mãi đâu ?
chả lẽ ra đi tìm cơm áo
nghĩa núi tình sông vạn cổ sầu
bốn mươi ba năm đầy thương hận quá
mà người Giao Chỉ chả nhìn nhau ?

BẤT CHIẾN

tự nhiên thành
ông bị quyền thần Tôn Thất Thuyết
và Nguyễn Văn Tường cách chức ngự sử
ông về Vụ Bản lập chiến  khu kháng Pháp
lập Đảng Văn Thân phò vua Hàm Nghi
chiến đấu nhiều năm chế ra vũ khí
và quân đội đựơc tổ chức rất có hàng ngũ
Hoàng cao Khải nhiều lần viết thư dụ hàng
nhưng ông không hài lòng
và chính phủ Bảo Hộ bèn sai
tổng đốc Bình Định là Nguyễn Thân
mang quân bản bộ đến tiêu diệt
nhưng ông sức gìa lại bệnh
rồi chết ?
Nguyễn Thân o mất 1 giọt mồ hôi
đáo mã thành công

PĐP

năm Thành Thái ngũ niên
đất Trung Kỳ không có gì quan trọng
các quan trong triều
người về vui thú điền viên
người thì lên sơn lâm ở ẩn
người thì nổi lọan
chỉ có Phan Đình Phùng mở đồn điền
ở Vụ Quang Hà Tĩnh
huyện Đông Khê Hà Tĩnh
rồi cho người qua Tàu qua Xiêm
học đúc súng đạn
làm chuyện văn thân Cần Vương
-
có cái học làm quan
có cái học làm dân
dân có việc cày sâu cuốc bẫm
tưới nước bón phân
quan có chuyện của quan
ăn hối lộ của dân
cầm roi đánh vào đầu dân
vơ vét của cải của bá tánh 

               CHU VƯƠNG MIỆN

READ MORE - CHÙM THƠ CHU VƯƠNG MIỆN VỀ PHAN ĐÌNH PHÙNG VÀ LỊCH SỬ

UỐNG RƯỢU Ở GÀNH HÀO BẠC LIÊU - Thơ Hoàng Yên Lynh


    
         Tác giả Hoàng Yên Lynh 



 UỐNG RƯỢU Ở GÀNH HÀO BẠC LIÊU
(Với Ông Ba Saigon)       
                                           
Rượu đến bất khả từ
Hồn mạnh ai nấy giữ
Xây chừng dăm ba quận
Rượu thoải mái vô tư.

Này thằng Năm con Tám
Dzô rồi ca cải lương
Đàn buông giây ai oán
Khói mây chiều vấn vương.

Còn thằng Tư Quảng Trị
Trôi dạt đến đất này
Buồn chi đời dâu bể
Đất trời vốn đổi thay.

Qua một đời trôi nổi
Cay đắng đủ vị đời
Lánh xa vòng thế sự
Bạn hiền nâng ly thôi.

Chú mày còn tuổi trẻ
Đâu thể bỏ quên đời
Xưa nay câu thành bại
Cũng chỉ là cuộc chơi.

Tụi mình còn may mắn
Còn chén rượu câu ca
Rồi qua cơn nắng hạn
Đất trời lại nở hoa.

Uống đi rồi tâm sự
" Điệp ơi lở lang rồi..."
Chèng ơi câu vọng cổ
Da diết tình khôn nguôi.

Trăng vàng soi con nước
Rượu vẫn đầy bình toong
Xừ xang hồ xê cóng
Mặc cho đời bão giông.

       Hoàng Yên Lynh

READ MORE - UỐNG RƯỢU Ở GÀNH HÀO BẠC LIÊU - Thơ Hoàng Yên Lynh

TRĂNG TÌNH 1 - 2 - Thơ Lê Kim Thượng



           Nhà thơ Lê Kim Thượng


TRĂNG TÌNH  1 - 2

1. 

Đường về Quê Mẹ ngày xưa
Đồng khoai đánh luống, ruộng dưa cuốn giồng
Chiều nghiêng nắng đổ qua sông
Chuông chùa vọng tiếng thu không dịu dàng
Chiều nghiêng nắng đổ hoa vàng
Nhẹ tan hoa nắng, ngọt tan vào hồn
Chiều nhìn Núi Mẹ - Bồng - Con
Tình người hóa đá héo hon, lỡ làng
Bến sông đợi chuyến đò sang
Nước riu riu chảy, lá vàng vàng trôi
Ráng chiều lịm tắt bồi hồi
Ngày qua lặng lẽ, dòng trôi buồn buồn
Em còn giặt áo hoàng hôn
Trăng thanh trắng nõn, trần truồng tắm sông
Dòng sông hư ảo, bềnh bồng
Bốn bề yên ắng, mênh mông nhạt nhòa
Thuyền về ngược nước phù sa
Mái chèo khua nhịp, lời ca trữ tình
Sóng chao ánh bạc lung linh
Thuyền ôm sóng nước tự tình nhấp nhô
Trăng vào giấc mộng mơ hồ
Một vầng trăng bạc lõa lồ dung nhan
Đưa tay hứng giọt trăng vàng
Chênh chao nỗi nhớ, bàng hoàng tình xa
Trăng đêm ngả bóng tre già
Lẫn trong tiếng gió, tiếng ca u hoài
Gian truân gác mái hiên ngoài
Rượu quê cạn chén, nguôi ngoai nỗi buồn


2.

Nhớ về Quê Mẹ mõi mòn
Thuyền về bến cũ, trăng còn đợi chăng?
Cuối đời, bóng xế tàn trăng
Nhang tàn, nến lụn, nhện giăng tơ lòng
Héo hon như ngọn đèn chong
Bóng buồn lay lắt, bên song chán chường
Ngày ngày có Kẻ ly hương
Chợt nghe tiếng sáo vấn vương cánh diều
Những ngày xa xứ dạt phiêu
Mùa đi, năm đến lắm điều chua cay
Dõi theo gió lộng, mây bay
“Bạch vân thiên tải...” qua ngày phong sương
Người đi tám hướng, mười phương
Người đi tìm cái phi thường cao sang
Để rồi cách trở đò giang
Một đời dang dỡ, lỡ làng trở trăn
Bao năm chờ đợi băn khoăn
Tóc phai màu bạc, mắt hằn chân chim
Tìm đâu giữa Cõi - Lặng - Im
Bóng quê giờ đã lạc chìm hư không
Dù cho cách núi, ngăn sông
Tình quê vẫn trọn một lòng đinh ninh
Còn câu Lục Bát nghĩa tình
Ru đời tĩnh lặng, ru mình tiêu diêu
Làm sao trả nợ tình yêu?
Tiếng kêu vô vọng trong chiều tha phương
Mỗi người có một Quê Hương
Để cho chín nhớ, mười thương, một đời...
                      
                          Nha Trang, tháng 5. 2018


                                LÊ  KIM  THƯỢNG

READ MORE - TRĂNG TÌNH 1 - 2 - Thơ Lê Kim Thượng

MÙA ĐI..., CÒN LẠI CHÚT THƯƠNG YÊU - Thơ Tịnh Đàm

 
      Nhà thơ Tịnh Đàm



MÙA ĐI..
(Gởi Kim Chi để nhớ mùa thu cũ)

Mùa đi,
Vàng những chiêm bao
Lối thu xưa ,
Biết chốn nào đã qua ?!
Còn đâu,
Miền nhớ thiết tha
Buồn trông
Nửa mảnh trăng tà
Hắt hiu !


CÒN LẠI CHÚT THƯƠNG YÊU 

Giờ cứ vậy,
Tôi như người trong mộng
Hát ru mình...
Tìm lại giấc mơ hoa.
Gởi về đâu ?
Một cõi lòng hoài vọng
Ánh mắt nào xưa ?
Nỗi nhớ nhạt nhòa !

Giờ cứ vậy,
Tôi tưởng mình đã cũ.
Ôm tình buồn,
Ngồi đợi bóng hoàng hôn !
Mang nuối tiếc,
Giấu cùng bao tâm sự...
Để bên đời,
Còn lại chút yêu thương .

TỊNH ĐÀM
(Hóc Môn, TP. HCM)

READ MORE - MÙA ĐI..., CÒN LẠI CHÚT THƯƠNG YÊU - Thơ Tịnh Đàm

THẢO LUẬN BÀI THƠ "CHIỀU LẠ" CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN - Châu Thạch

    
               Nhà bình thơ Châu Thạch



        THẢO LUẬN BÀI THƠ 
       "CHIỀU LẠ" CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Bài thơ có đầu đề Chiều lạ nhưng qua mấy câu thơ ta không thấy buổi chiều có gì lạ.
Bài thơ chỉ có một câu thơ đề cập đến chiều: “nắng chiều rơi trên lá”. Nắng chiều rơi trên lá là một chuyện bình thường trong mọi buổi chiều. Vậy buổi chiều lạ ở chỗ nào? Nó lạ vì chiều nay có chiếc “áo lạ”. Chiếc áo lạ làm cho buổi chiều thay đổi hẳn, hay đúng ra, chiếc áo lạ đã đánh động tâm hồn của người thơ làm cho dậy lên trong lòng thi sĩ sự băn khoăn đến độ nếu không nhìn được nó thì “Sợ đêm về/ quẩn gió/ xáo xác khuya”.
“Quẩn gió/ xáo xác khuya” chỉ là mượn cảnh để diễn tả cái tình xảy ra trong lòng, hay đúng hơn là diễn tả cái tâm trạng thao thức trong đêm của người muốn nhìn chiếc áo lạ. Chiếc áo đó dầu đẹp đến đâu cũng không khiến cho lòng người xao động đến thế. Sở dĩ lòng người xao động đến thế vì chiếc áo lạ nhưng người không lạ. Người không lạ vì người nếu không là hình bóng của kẻ mà nhà thơ say đắm thì cũng là người có sợi dây vô hình gắn bó, có tiền duyên từ một kiếp nào để đánh thức niềm đam mê, làm sống dậy khối tình đang ngủ từ trăm năm, từ ngàn năm trước chăng?
Đọc bảy chữ đầu của bài thơ:

“Sợ đêm về
quẩn gió
xáo xác khuya”

thì ai cũng đặt trong đầu mình một dấu hỏi vì sao phải sợ như thế. Đọc đến các câu thơ kế tiếp cho ta một cảm giác thiết tha với tà áo vì tà áo trong thơ quan trọng quá, nó thoáng qua trong đôi mắt, nó mỏng manh nhưng nó đã làm cho “quẩn gió/ xáo xác khuya” là làm ảnh hưởng không gian, thời gian, thay đổi khí hậu hay đúng ra, nó dằn vặt một tâm hồn bình an để thấy vạn vật chung quanh đều chuyển đổi.
Hai câu thơ:

Cố vét vớt nắng chiều rơi trên lá
Chênh chao thể nụ cười nhòe áo lạ

thật là khó hiểu. Tuy thế qua thơ ta cũng đoán được rằng “áo lạ” xuất hiện vào một buổi chiều tắt nắng. Trời chưa tối hẳn nhưng ánh nắng chỉ còn rơi lẻ loi trên lá, để cho tác giả phải “cố vét vớt” cái nắng chiều, tìm thêm ánh sáng mà nhìn cho rõ thêm tà áo lạ. Cái anh nắng “cố vét vớt” đó nó chênh chao. Vì sao nó chênh chao? Vì nó rơi trên lá, mà lá rung trong gió nên nó phải chênh chao. Lạ thay, thứ ánh nắng cố vét vớt đó tác giả lại cho “thể nụ cười” tức là như nụ cười, mà nụ cười ấy lại làm cho “nhòe áo lạ”.
Ta biết thứ ánh nắng sót lại của buổi chiều nó vô cùng dịu mát, nó cũng làm cho cây cỏ được dát vàng, nghĩa là nó rất đẹp. Vậy thì trong bài thơ này nó đại diện cho nụ cười của người mặc chiếc áo. Chiếc áo lạ đã đẹp. Vậy mà nụ cười “như nắng chiều rơi trên lá chênh chao” làm nhòe chiếc áo lạ thì nụ cười ấy đẹp biết bao. Đọc thơ, người ta tưởng khoe chiếc “áo lạ” là đẹp nhất, nhưng không, chiếc áo lạ dầu đẹp cũng vô tri mà nụ cười mới mang linh hồn của người mặc áo. Nụ cười đẹp hơn chiếc áo. Té ra tác giả dùng chiếc áo lạ để tá khách nụ cười vào đó, tôn vinh nụ cười đến chỗ tuyệt mỹ khôn lường.
Và lạ lùng thay, ba câu thơ chót như bức màn nhung kéo xuống, kéo xuống để khán giả nhìn xuyên qua bức màn nhung thấy cả buổi chiều trở nên êm ái, để người đọc cảm khái cái im lìm của hoạt cảnh xảy ra:

Te tẻ chiều
nhớn nhác
nhón chân qua.

Ta hãy nhớ lại bài thơ Trăng của nhà thơ Xuân Diệu:

“Trong vườn đêm ấy trăng nhiều quá
Ánh sáng tuôn đầy cả lối đi
Tôi với người yêu qua nhè nhẹ
Im lìm, chẳng dám nói năng chi”.

Vì sao qua nhè nhẹ, vì sao im lìm? Nhà thơ Xuân Diệu nói vì:

“Tôi sợ đường trăng tiếng dậy vang
Ngơ ngác hoa duyên còn núp lá
và làm sai lỡ nhịp trăng đang”

Ở đây nhà thơ Đặng Xuân Xuyến cũng thế. “Te tẻ chiều” là buổi chiều bình an quá, thơ mộng chẳng khác gì trăng trong vườn nhiều quá, trăng đầy cả lối đi. “Nhớn nhác/ nhón chân qua” vì muôn giữ sự yên tịnh của một buổi chiều, vì muốn hình bóng tuyệt vời của tà áo lạ không biến đi, vì muốn giữ nụ cười thơ mộng như giọt nắng chênh chao trên lá cho của riêng mình không tan ra bởi biến động nào, nhà thơ đành nhẹ chân trong im lìm nhón gót theo em.
Bài thơ ngắn diễn tả chỉ một hành động nhưng nó đem cho ta một chiếc áo quá đẹp, một nụ cười quá đẹp, một khung trời quá đẹp, quá bình yên, quá thơ mộng và một giấc mơ mang hình ảnh tuyệt vời của một buổi chiều rất quen mà dường như rất lạ vì cảm nhận được những điều tinh tế trong thơ./.
*.
Đà Nẵng, chiều 05.10.2016
CHÂU THẠCH
(Tên thật: Trương Văn Trạn)
Địa chỉ: 75 Phan Kế Bính, Đà Nẵng.
ĐT: 0929128967 - 05113894610




CHIỀU LẠ
(Tặng L.L)

Sợ đêm về
quẩn gió
xáo xác khuya
Cố vét vớt nắng chiều rơi trên lá
Chênh chao thể nụ cười nhòe áo lạ
Te tẻ chiều
nhớn nhác
nhón chân qua.
*.
Hà Nội, chiều 02 tháng 10.2016
ĐẶNG XUÂN XUYẾN

READ MORE - THẢO LUẬN BÀI THƠ "CHIỀU LẠ" CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN - Châu Thạch

KHÚC TÌNH XƯA - Thơ Nguyễn An Bình






KHÚC TÌNH XƯA

Có ai thắp lửa mùa trăng cũ
Nghe động cành chim - gió lạc mùa
Nhẹ bước sao người còn thổn thức
Ngược dòng máu đỏ cạn tình xưa.

Gởi hạt mưa thơm vào lòng giấy
Ủ tàng phượng đỏ cháy miên man
Thì ra cũng có người đang khóc
Nhớ những dòng thơ đã lụi tàn.

Nhìn  con chim nhỏ bay về núi
Có hẹn cùng ta buổi trở về
Hạt nắng cuối mùa trôi vô định
Nần nợ gì nhau một bóng quê.

Thương  màu mây khói vương đầy mắt
Nhớ một bàn tay -  ấm trong tay
Mưa se áo mỏng chưa kịp bắt
Sầu đã dâng tràn lọn tóc bay.

                             Nguyễn An Bình
                                  11/5/2018

READ MORE - KHÚC TÌNH XƯA - Thơ Nguyễn An Bình

ẤY À ... - Thơ Trương Thị Thanh Tâm



        Tác giả Trương Thị Thanh Tâm



ẤY À ...

Tim còn nhớ "ấy"ngày xưa
Mắt mờ mờ đục, nửa vừa yêu thương
Nhớ người, tim giận mà vương
Quyết lòng chẳng muốn...chờ hương mặn nồng

Trời xanh, còn tiếc tuổi hồng
Nên biết trao lòng...lắng đọng tình riêng
Chiều nay mưa nắng từng miền
Yêu thương trở giấc, tên điền vào tim

"ấy" ơi tim đã lồng tên
Ước mơ còn lại ta tròn tơ duyên
Cái ngày "ấy" đổi lại tên
Tình yêu những tưởng cạn nguồn...rồi xa

Nhớ ngày tim đã tiễn đưa
"Ấy" về bên đó, tim chưa trở về
Vẫn còn ngồi lại bàn kê
Nhớ đôi mắt "ấy" môi kề ban trưa

Tay nào lạ lẫm làm mưa
Tay nào đan gối, để đưa tình về...?

            Trương Thị Thanh Tâm
                        (Mytho)

READ MORE - ẤY À ... - Thơ Trương Thị Thanh Tâm

THẾ THÁI NHÂN TÌNH QUA THƠ ĐẶNG XUÂN XUYẾN - Đỗ Anh Tuyến

   

THẾ THÁI NHÂN TÌNH QUA THƠ ĐẶNG XUÂN XUYẾN

Nhà thơ Đặng Xuân Xuyến gửi tặng tập thơ CƯỠNG XUÂN đã lâu nhưng vì bận nên tôi chưa viết lời cảm nhận được. Hơn nữa, nhà phê bình Châu Thạch và nhà thơ Nguyễn Thanh Lâm giới thiệu tập thơ đã khá công tâm, đã đủ ý, đủ lời nên tôi cũng khó viết thêm.
Bài viết này, giới thiệu một số bài thơ ở mảng thơ thế thái nhân tình, tức thơ thế sự, của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến, đã được anh công bố rộng rãi trên các trang mạng nhưng chưa in thành sách, theo cảm nhận của riêng tôi là hay, lạ và độc đáo. Xin được chia sẻ cùng quý vị.
1.
Quê nghèo (01) là một trong số những bài thơ hay của Đặng Xuân Xuyến. Bài thơ là tiếng lòng đớn đau của người con khi phải chính kiến cảnh đói nghèo, cơ cực trải dài qua bao năm tháng, qua bao thế hệ ở làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Bài thơ chiếm được nhiều cảm tình của người đọc, được nhiều tác giả viết lời bình nhưng chiếc cổng làng - hình tượng độc đáo trong Quê nghèo - lại chỉ được bình thoảng qua, trong khi lẽ ra phải dành cho chiếc cổng làng một lượng câu chữ nhiều hơn thế.
Tôi nghĩ chiếc cổng làng của Quê nghèo không còn là cổng làng của riêng làng Đá nữa mà là biểu tượng của thể chế Xã Hội Chủ Nghĩa đã giam hãm, trói buộc người dân trong đói nghèo, tù túnǵ... Đấy là tiếng kêu nghẹn uất của nhà thơ về nỗi đau của chế độ đã đè nặng lên cuộc sống cơ cực, khốn quẫn của người dân. Hình ảnh cái cổng làng “Sừng sững bê tông cốt thép/ Ngạo nghễ tượng đài/ Ngạo nghễ trần ai” cũng khiến người đọc liên tưởng tới hiện tượng cả xã hội thi nhau xây dựng các loại tượng đài để đục khoét ngân khố quốc gia, làm khổ thêm cuộc sống “trăm đắng ngàn cay” của người dân. Thật đau xót khi biểu tượng chiếc cổng làng - biểu tượng ngàn đời của văn hóa làng xã Việt Nam đã bị thể chế hóa, để không chỉ “Giam hãm đời người/ Tù túng giấc mơ.”, mà còn đầy đọa, đẩy cuộc sống người dân xót xa đến mức: “Quê tôi nghèo/ Nghèo cả giấc mơ.”
2.
Ru Con (02) là bài thơ Đặng Xuân Xuyến viết tặng con trai của anh, đã làm run rẩy, xúc động trái tim người đọc bởi tình yêu con bao la, sự hy sinh cho con vô bờ bến của người cha. Nhà thơ Nguyễn Đăng Hành (021) khi bình đã bật lên được thần thái của bài thơ:
Không một lời kể lể, không một câu đấu tố “kẻ” được gọi là “người lớn” đã “dạy hư”, làm khổ đứa con bé bỏng của mình, nhưng đã hiện lên hoạt cảnh đầy kịch tính, xúc động: “Con níu vào giấc ngủ/ Kiếm nụ cười trong mơ”.
Đọc đến đây tôi đã khóc, khóc thật sự bởi hình ảnh “con níu vào giấc ngủ” chứ không phải níu con vào giấc ngủ - “Kiếm nụ cười trong mơ” chứ không phải nở nụ cười trong mơ. Động từ “níu” và “kiếm” sử dụng thật đắt và sống động, gây được xúc cảm: Một đứa trẻ ở lứa tuổi rất ngây thơ trong sáng đã sớm hiểu chuyện, ý thức được thiệt thòi của mình mà “níu vào giấc ngủ” để “kiếm nụ cười trong mơ”, để tự bù đắp những thua thiệt cho mình. Và người cha, cảm được những giọt lệ âm thầm của người con, hiểu được những khao khát, thua thiệt của người con, đã lặng nhìn con ngủ với những xót xa trĩu nặng. Dù không vạch tội cụ thể “người lớn” nào đã làm khổ con mình nhưng người đọc vẫn nhận diện ra kẻ đó là ai và cảm nhận được nỗi uất hận trào dâng trong lòng người cha đối với kẻ nhẫn tâm làm khổ con mình. Đây là khổ thơ mấu chốt. Cấu tứ đặc biệt này tạo dòng chảy sức sống của bài thơ.
(…) Tiêu đề bài thơ tuy cũ, cấu tứ thơ lại hiền lành nhưng sự chân thực được cất lên từ tình yêu thương con vô bờ của người cha đã khiến bài thơ sống động, có sức truyền cảm, làm run rẩy, xúc động trái tim người đọc. Đấy chính là cái thành công, cái được của Ru Con!
3.
Lan man và chuyện thằng bạn (03) viết theo trường phái siêu thực, một phương pháp sáng tác mà lớp nhà thơ trẻ thường sử dụng khi muốn làm mới thơ, được chua dòng chữ: tặng nhà thơ Nguyễn Đăng Hành, là bài thơ đã tạo cấu tứ lạ, nét vẽ riêng trong thơ Đặng Xuân Xuyến.
Khung cảnh bài thơ là nhà “thằng bạn”, thời gian là cả ngày và đêm, được vẽ bằng gam màu u ám, rờn rợn, nhuốm đầy tử khí. Bao chùm bài thơ là không khí ngột ngạt, là tâm lý sợ hãi của nhà thơ - người dân: “Tôi đã từng sợ tiếng thạch sùng / nửa đêm tờ lạch tạch não nùng...” và “Tôi đã từng sợ ma.”... Phải chăng chính bóng đêm tội ác của chế độ đã làm nhà thơ - người dân luôn sống trong tâm trạng nơm nớp âu lohoảng loạn?
Sự giả dối, thói tham lam và bản tính độc ác, đểu giả của “thằng bạnám chỉ tầng lớp quan lại, được bóc trần nhẹ nhàng, từ từ khi thời gian là ban ngày (khổ thơ I), nhưng khi thời gian chuyển sang tối đêm (khổ thơ II) thì mặt nạ của “thằng bạn” bị lột trần trắng phớ, lộ rõ sự đểu giả, ma mãnh, độc ác. Chỉ cần hình ảnh “thằng bạn” với “những tờ tiền đỏ như rưới máu” cũng đã đủ để vạch trần đó là những đồng tiền dơ bẩn, tội lỗi, được trấn cướp từ mồ hôi, nước mắt, thậm chí là máu, là tính mạng của những người dân lương thiện. Có lẽ vì quá hiểu nguồn gốc của những đồng tiền tội ác đó nên “tôi”, nhà thơ, không hỏi “tiền nhiều từ đâu”, và “thằng bạn” cũng biết bạn mình quá rõ con người mình nên tảng lờ, “tránh nhắc từ đâu tiền nhiều”. Và, trong cái “Quánh đêm” “Rờn rợn” “tối lịm” ấy, khuôn mặt “thằng bạn” sau khi bị nhà thơ tróc bỏ hết lớp “sơn” đã hiện rõ nét là kẻ giả tạo và độc ác: Khuôn mặt bạn/ Vời vợi của thánh nhân/ Ma lanh của ác quỷ. Đến đây, chả cần xướng danh cụ thể, người đọc vẫn chắc chắn sẽ nhận ra chân tướng đích thực “thằng bạn” của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến là ai, kẻ đấy là người thế nào, và bản chất “thằng bạn” tệ hại ra sao?...
4.
Khi cảm nhận về bài thơ Tôi nghe (04), nhà thơ Chử Văn Long viết: “Mừng cho ngòi bút tác giả bài thơ “Tôi nghe”nếu không vững tay nghề sẽ đem kể hàng loạt những vụ tham nhũng biến chất như thế, bài thơ sẽ biến thành một “bản trường ca bất hảo” trường thiên… đọc sẽ nhàm chán bởi bản chất của xã hội, dù tha hóa đến đâu vẫn còn lại bao điều tốt đẹp, vị tha, cao cả. Và đoạn thơ thứ tư bất ngờ xuất hiện: (...) Tám câu thơ gợi hình ảnh tương phản với ba đoạn thơ trên về màu sắc sáng tối làm nên bức tranh toàn cảnh sinh động mà lâu nay mỗi khi nghĩ đến thi ca người ta có cảm giác nó là thứ nghệ thuật đã tách ra, đứng bên lề cuộc sống thì nay nó lại nhập cuộc vào vui buồn thao thức lương tri. Tám câu thơ ngắn liệm trọn số phận con người nghèo khó ở bất cứ nơi nào khi mà cuộc sống chưa có công bằng bác ái, ở bất cứ nơi nào mà bọn quan tham còn được che đậy bởi những lời nói ngoài môi “vì Đảng, vì dân”!
Nhưng tôi có chút không đồng thuận với nhà thơ Chử Văn Long khi đọc những dòng kết luận của ông về Tôi nghe:
“Bài thơ không cần đoạn thứ năm: Tôi nghe… / Những mảnh đời khốn khó / Những anh Vươn sắp trơ lì hãi sợ / Có câu tức nước ắt vỡ bờ / Khi niềm tin rạn vỡ.
Bởi chỉ bốn đoạn trên nó đã gây được xung lực, nó đã gợi lên cho người đọc, dù vô tâm đến đâu cũng phải khơi dòng không thể để “tức nước vỡ bờ”. Nhìn lại những trận đại hồng thủy từng qua, cuối cùng vẫn lại dân đen chìm nổi cùng với đau thương gánh chịu.”
vì khổ thơ cuối không chỉ là lời cảnh tỉnh tới chế độ mà còn là khí phách dũng cảm của người cầm bút trước hiện trạng đau thương của đất nước. Thử hỏi khi mà ngàn vạn nhà thơ nhà văn, nhất là những nhà văn nhà thơ “Quốc Doanh” đang ỉ ôi than khóc với những tình anh tình em vô bổ, thậm chí còn đầy độc hại vì tính ru ngủ xã hội, thì mấy ai đã dũng cảm viết ra những dòng thơ nóng bỏng tình người, sục sôi tính chiến đấu như thế?.
5.
Bài thơ Lan man và chuyện đàn cừu (05) cũng viết theo trường phái siêu thực, khước từ sự chú giải, phân tích theo lối thủ cựu, được chua dòng chữ: tặng nhà thơ Vũ Đình Ninh, chủ bút trang Văn Đàn Việt.
Bài thơ gồm 2 khổ. Khổ đầu là phân cảnh, là tâm trạng của những con người thuộc tầng lớp lao động, thuộc lớp dưới nhưng lại chiếm số đông trong xã hội, vất vả, cơ cực mà vẫn phải chịu cảnh đói nghèo, lam lũ... Với khát khao, mơ ước tương lai được tươi sáng, tốt đẹp hơn, “tôi” - nhà thơ, và số đông trong xã hội - đã không ngừng phấn đấu, không ngừng tin tưởng, để rồi “tôi” phải cay đắng thốt lên: “Hình như”... Câu “hình như...” nghe chua xót, tắc nghẹn nơi cuống họng làm tái tê, rức buốt nỗi lòng. Một tứ thơ “lạ” và mới.
Sang khổ 2, nhà thơ tiếp tục câu chuyện của mình nhưng “lan man” chuyện khác, chuyện của đàn cừu: Đàn cừu / Ngoài kia... Cấu trúc bài thơ thay đổi. Cấu trúc đoạn thơ cũng thay đổi: Con đầu đàn vừa bị hóa kiếp / Cả đàn chết khiếp / Lẩy bẩy / Chen đẩy / Vào chuồng / Ông chủ oang oang / Bà chủ nhẹ nhàng / Đàn cừu / Im lặng / Cúi xuống / Nhai... Cách ngắt câu thành nhiều nhịp để diễn tả sát từng cung bậc tâm trạng: khiếp sợ, cam chịu,... của “đàn cừu”, tượng trưng cho những kẻ bị trị, cùng với cách sử dụng ngôn ngữ “cũ mới nương nhau”, đã đẩy bài thơ lên tầm cao.
6.
Bài thơ Văn Thùy “dị nhân” (06), được 2 nhà thơ Chử Văn Long (061) và Nguyễn Đăng Hành cảm mến viết lời bình, nhưng tôi thích bài của nhà thơ Nguyễn Đăng Hành(062) hơn vì ông đọc được cái hồn cốt, cái thần của bài thơ:
Đọc Văn Thùy “dị nhân” của Đặng Xuân Xuyến tôi thấy người gai gai, rạo rực, cứ ngỡ bài thơ này là viết về mình, viết cho mình vì thấy có bóng dáng tôi ở trong đó. Tôi tin, khi đọc Văn Thùy “dị nhân” sẽ không ít người thơ, nhà thơ có tâm trạng, cảm giác gai gai, rạo rực giống tôi. Đó chính là thành công của bài thơ, của nhà thơ. Thường thì những bài thơ đi vào lòng người là tuy viết về một người mà có hình ảnh của nhiều người, viết cho một người mà như viết cho nhiều người. Đó là thứ thơ có chất trời, chất đời, chất người. Văn Thùy “dị nhân” là bài thơ như thế.
(…) Bài thơ không hề kể lể, chau chuốt hay dụng công đắp vẽ mà cứ hồn nhiên, nhịp nhàng, đầy tràn “ứ hự”... Hai câu “Cả đời/ Đánh đổi” đã dựng lên, đã thắt lại cái triết luận: Tất cả là luân hồi, nhân quả và vô thường. Sự thành bại là sự đánh đổi của cuộc đời. Chữ “đánh đổi” đúng là “nhãn tự”, là lò so co giãn của bài thơ, như sợi chỉ xuyên suốt câu từ bài thơ. Nhà thơ tự hỏi “Được gì?” song lại tự lý giải, bình báo ngay sau đó:“Dăm ba bài thơ dán tem thơ bụi”. Rồi tiếp: “Thiếu vợ/ Thiếu con/ Đâu phải Kép Tư Bền/ Sao cứ bắt miệng cười tim héo”. Ôi đau quá! Buồn quá! Tác giả thật khéo ẩn dụ đặt con “tim héo” bên cạnh “miệng cười”, đọc mà thấy nặng tình nặng nợ. Khiến người đọc ngậm thở rồi mà phải thượt dài, phải thán phục và công nhận cái giá của sự say sưa, của sự đánh đổi được mất con chữ thi ca “thơ bụi”. Tôi đồ rằng, khi viết những câu thơ này, Đặng Xuân Xuyến phải nén lòng lắm để nước mắt khỏi tràn vào câu chữ, để hình ảnh của Văn Thùy “dị nhân” được sống động, rất đời: ngông ngạo, tài hoa mà chất nặng đắng cay.”
7.
Trò Đời (07), sáng tác ngày 08 tháng 05 năm 2017, với dòng chua: kính tặng nhà thơ Nguyễn Khôi, đúng dịp ông Đinh La Thăng bị thu hồi chức Bí thư Thành Ủy thành phố Hồ Chí Minh, triệu về Hà Nội, chờ ngày sẽ tra tay vào còng số 8.
Được viết ở thể thơ tự do, Trò Đời là bài thơ khá ngắn, không tuân thủ theo niêm luật mà viết thẳng đuột, khoáng đạt, đập thẳng và mạnh vào cái thế thái nhân tình đốn mạt, cạn tàu ráo máng của giới quan chức, của những kẻ khi đương chức đương quyền thì tận lực tham ô, sống thủ đoạn, bất nhân bất nghĩa nhưng khi nghỉ hưu thì lại cố rặn ra những câu trơ trẽn bảo nhau “ráng làm người tử tế” như để mà chuộc lỗi những năm tháng làm quan hút máu dân đen, sống như phường cầm thú.
Mượn giọng bất cần của một ông quan đang bị thất thế để lột trần bộ mặt đểu giả của chốn quan trường, nhà thơ ngông nghênh chửi đời, chửi bản chất chốn quan trường là “lưu manh”, “Đếch có chữ tình”, là “truy cùng diệt tận” đối thủ chính trị cho dù đối thủ ấy đã “Thất thế sa cơ”, đang cố diễn trò “Ráng “làm người tử tế””...
Câu kết bài thơ: Ngã ngựa rồi mới thèm một chữ NHÂN, không chỉ là sự trả giá của gã quan thất thế, đang hoặc sẽ bị đối thủ chính trị “truy cùng diệt tận” mà còn là lời cảnh tỉnh cho những kẻ đang làm quan, sẽ làm quan hãy sống cho tử tế, cho ra một con người để có đường lùi, có sự an toàn khi hạ cánh.
Chữ NHÂN là nhân tâm, là phần NGƯỜI trong 2 chữ CON NGƯỜI thật đáng quý làm sao!
8.
Khi bình về bài thơ Bạn Quan (08), nhà thơ Chử Văn Long hạ bút:
Tôi thật ngưỡng mộ vì nội dung, giọng điệu, câu chữ già dặn, từng trải, vừa tiếp thu cách nhìn đời, nhìn người của các lớp nhà thơ cha anh mỗi khi bĩ cực, nhưng hơn hẳn lớp nhà thơ ăn theo xã hội bây giờ, khi vui thì vỗ tay vào, hết lộc thì thở ra những lời ai oán vụn vặt làm người đời chán đọc thơ vì vậy.
Thơ Đặng Xuân Xuyến cũng mượn hơi men “giả tỉnh giả say” như để có cớ lôi tuột những mưu mô giả trá của một xã hội đang thịnh hành, đang phân hóa, làm đảo lộn hết đạo đức, nhân cách, làm người dù chỉ giới hạn bằng những lời bộc bạch, tâm sự của hai người bạn lâu ngày gặp lại, có nhu cầu phơi trải lòng mình thật đến nỗi chỉ thiếu cái tát bằng những ngón tay in lên mặt nhau, dù làm quan có chức tước giàu sang hay là dân ngu ngơ, nghèo túng, khi nhìn lại đời mình đều nhục, chưa thấy xứng kiếp người, tự mình thấy mình như súc vật, kiếp ngan, kiếp chó....
Tình bạn xa lâu ngày gặp lại nhau, người ta thường ôn lại kỷ niệm trong lành một thuở, rồi mới có nhu cầu hỏi han công việc hiện tại gia cảnh của nhau. Đằng này có tình bạn ngày xưa của họ chỉ phụ họa thêm cho nỗi ấm ức về những rối ren, bất công xã hội. Thằng học giỏi không sống thủ đoạn thì làm dân quèn, thiếu cơm rách áo. Thằng học ngu, biết nịnh nọt cúi luồn vẫn có thể mua được chức tước lên quan để kiếm bổng lộc bạc vàng, thành ra cuộc gặp gỡ nơi chôn nhau cắt rốn lại là cái cớ để nổ ra cuộc vạch mặt chỉ tên những bất công xã hội đang ấm ức nơi lòng mỗi kẻ.
Bài thơ thành bữa tiệc giữa hai người bạn thết nhau vị ngọt bùi, cay đắng tình thân, vừa là của riêng, lại vừa dọn mời người đọc nhâm nhi, cụng chén ở những năm tháng đời người thật ít điều vui, ít tình thân thiện và gần như không còn thứ tình cảm tri kỉ mà ông cha ta đã ngìn năm trồng cây cho gỗ nên trầm. Giờ rừng bỗng dưng bị đốn trụi. Tình người rồi sẽ sao đây! Đặng Xuân Xuyến đã gửi tâm sự lòng mình vào thơ cho vơi ấm ức! Có lẽ chỉ còn thơ có thể an ủi anh chăng!”
9.
Nhớ Mẹ (09) viết theo cách cũ. Hình ảnh về mẹ rất gần gũi, thân thuộc, rất đẹp trong ký ức mọi người: Mẹ gửi đồng xa tiếng cười / Mẹ mong đơm mùa trĩu hạt / Nhọc nhằn nhuộm lời mẹ hát.... Những hình ảnh tương tự như thế đã được nhiều nhà thơ sử dụng, nhưng những câu thơ cất lên từ trái tim hiếu thảo của người con, với những hình ảnh sống động, sâu lắng về Mẹ: Nhớ những chiều nắng tắt / Kẽo kẹt gánh rau mẹ vội về nhà / Dáng mẹ xiêu xiêu run rẩy chiều tà... và: Cha ở phương xa / Chúng con còn bé dại / Gánh nặng gia đình trĩu nặng đôi vai... rất của riêng Mẹ của Đặng Xuân Xuyến mới làm nao lòng người, mới gợi được cảm xúc nơi người đọc, lấy được cảm xúc của người đọc.
Bài thơ được đẩy lên cao trào, lấy thêm nước mắt của người đọc khi thẩm tiếp những câu “tan nát cõi lòng” của người con hiếu thảo: Con muốn hỏi trời cao / Con muốn cào đất rộng / Đâu là lẽ công bằng / Mẹ một đời nhân hậu thẳng ngay / Sao lắm cơ cực đắng cay / Lặng thầm qua đời mẹ... Hình ảnh người con trai: Ngửa mặt nhìn trời tay con nắm chặt / Nước mắt ngược vào tim mặn chát... để chất vấn trời cao, chất vấn số phận... đã cứa vào tim người đọc. Ở khổ thơ thứ 3 này, nhà thơ lần nữa thể hiện tay nghề vững, thể hiện sự rành rẽ về tâm tư, tình cảm và những yếu mềm của trái tim... để viết lên những câu thơ rung động lòng người, dâng lên Mẹ.  
Chưa hẳn là bài thơ tuyệt hay, thật đặc sắc nhưng Nhớ Mẹ của Đặng Xuân Xuyến là một trong số những bài thơ hay và đẹp về lòng hiếu thảo.
10.
Bài thơ “Về quê đi mày” (10) cũng là bài thơ hay, chan chứa tình của Đặng Xuân Xuyến với bè bạn, quê hương. Tôi thật sự ấn tượng khi đọc nhà văn Dương Ninh Ninh(101) cảm Về quê đi mày với những dòng:
Về quê đi mày”, thoạt nghe tưởng như đây là tiếng nhà thơ nhắn gọi người bạn cũ. Nhưng tĩnh lòng lại, ta sẽ nhận ra đó không phải là tiếng gọi thực của nhà thơ mà là những âm vang của thời thơ dại. Cái thời thơ dại ấy tuy đã qua đi lâu rồi nhưng nó vẩn còn lưu bóng dáng những kỷ niệm về nó trong  tâm hồn mỗi người. Sau mấy chục năm, bươn trải trong thực tế phũ phàng của cuộc sống, mê mải trong những toan tính khôn ngoan của người lớn và đứng trước biết bao cơn bão tinh thần muốn xô đổ những giá trị tình cảm đạo đức, tưởng như những dấu vết ngây ngô của thời thơ dại ấy đã bị xóa nát. Nhưng không, nó chỉ ngủ yên trong lòng mỗi người để khi có dịp thì thức dậy. Với nhà thơ Đặng Xuân Xuyến cũng thế, khi anh nhớ tới người bạn hiền đã biền biệt “hai mấy năm trời” thì cũng là lúc những kỷ niệm thời thơ dại của đôi bạn bừng thức dậy trong lòng anh, âm vang thành những tiếng thơ đầy khao khát được gặp lại bạn để cùng nhau về quê ôn lại thời thơ dại ấy, bởi chỉ có về quê mới có thể tìm lại những dấu vết ngây ngô khờ khạo nhưng hồn nhiên trong sáng vô tư đã qua đi rồi ấy.
Cái hay của tiếng gọi “Về quê đi mày” là ở đấy, ở chỗ nó vừa ảo vừa thật. Và vì thế tôi thích bài thơ này của Đặng Xuân Xuyến.”
&.
Thưa quý vị!
Vài cảm nhận về một số bài thơ của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến, có gì bất cập, mong nhận được ở quý vị sự lượng thứ.
*.
Thanh Nê, ngày 10 tháng 01.2018
ĐỖ ANH TUYẾN
Địa chỉ: Khu Cộng Hòa, thị trấn Thanh Nê,
huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình


PHỤ CHÚ:


READ MORE - THẾ THÁI NHÂN TÌNH QUA THƠ ĐẶNG XUÂN XUYẾN - Đỗ Anh Tuyến