Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Thursday, June 13, 2013

Truyện ngắn truyền kỳ: CHIẾC ÁO THIÊN NGA - Nguyễn An Bình





       Từ lâu ở phía nam kinh thành Thăng Long, Vũ Sinh nổi tiếng là người có cách kể chuyện truyền kỳ hấp dẫn, lôi cuốn. Với kiến thức uyên bác, sâu rộng Vũ Sinh đã biến những câu chuyện trong tích xưa, truyền thuyết mà ai cũng biết thành những câu chuyện mới mẻ tân kỳ, những lời nhận định sâu sắc không làm nhàm chán người nghe.Thật ra Vũ Sinh không phải họ Vũ mà là họ Đào, xuất thân từ gia đình phường hát quê Thanh Hóa, cha mẹ thấy chàng thông minh, sáng dạ nên gửi gấm chàng cho một thầy đồ nổi tiếng trong vùng giảng dạy. Năm mười sáu tuổi thơ phú của chàng thiếu niên họ Đào nổi tiếng một vùng. Nhưng theo qui định của triều đình lúc bấy giờ, con cái phường chèo hát xướng không được ứng thí, nên chàng được mẹ đổi sang họ Vũ, giấu thân thế để đăng ký dự thi.Năm ấy chàng đổ đầu kỳ thi hương và tiếp tục ứng thí kỳ thi hội, Vũ Sinh được xướng danh trên bảng vàng thì có người ganh ghét tố giác tội thay tên đổi họ, gian dối lý lịch đi thi. Thế là Vũ Sinh bị tuốt hết bằng cấp và suýt rơi vào vòng lao lý nếu quan chánh chủ khảo năm đó không quí mến văn tài của chàng nên xin nhà vua giảm tội nếu không bị ghép tội khi quân,coi thường mệnh vua phép nước là cái chắc, chàng chỉ bị cấm từ nay không được ứng thí nữa nếu không sẽ phạm tội chết.Uất ức, đau buồn Vũ Sinh biết rằng con đường công danh, cơ hội muốn đem tài năng của mình ra giúp dân giúp nước đã mất, chàng bỏ xứ Thanh lên Thăng Long tìm đường mưu sinh chờ cơ hội khác, trời đất run rủi thế nào để kiếm sống Vũ Sinh hành nghề kể chuyện mua vui cho kẻ khác và không biết từ lúc nào chàng trở thành người kể chuyện nổi tiếng của đất kinh kỳ. Vũ Sinh có lối dẫn nhập rất độc đáo lúc là một bài thơ, bài đồng dao, một câu chuyện cổ tích, ngụ ngôn… để vào chuyện nên ngay từ đầu đã tạo sự cuốn hút đối với người nghe.     

      Trong không khí se lạnh của ngày cuối năm, ở góc phiên chợ cạnh tửu quán Vạn Xuân có khoảng đất trống là nơi Vũ Sinh thường dùng làm nơi kể chuyện,mọi người háo hức chờ đợi chàng kể một câu chuyện mới: Chiếc áo thiên nga.Vũ Sinh bắt đầu vào chuyện bằng một đoạn thơ:
                    Tôi kể người nghe chuyện Mỵ Châu
                    Trái tim lầm chỗ để trên đầu
                    Nỏ thần vô ý trao tay giặc
                    Đến nỗi cơ đồ đắm biển sâu* 
       Đó là câu chuyện về truyền thuyết xây thành Cổ Loa, chuyện nỏ thần và nhất là bi kịch tình yêu giữa Trọng Thủy, Mỵ Châu dẫn đến chuyện mất nước Âu Lạc, Vũ Sinh kể rất say sưa, hấp dẫn. Kết thúc chuyện chàng nhắc lại lời của Thần Kim Qui nói với An Dương Vương: Giặc ngồi phía sau nhà vua đó để phê phán Mỵ Châu chính là thủ phạm chính, nàng là người có tội với đất nước đã đưa đất nước rơi vào cảnh nô lệ gần một ngàn năm. Vũ Sinh chưa kết thúc câu chuyện thì đột nhiên một cơn lốc mạnh nổi lên, cát bụi bốc lên mù mịt, lều bạt hàng quán gió vỗ nghe phành phạch, cột kèo kêu răng rắc, trời đang quang mây tạnh bỗng tối sầm lại, ai nấy đều hoảng hốt sợ hải vội chạy tìm nơi ẩn nấp hoặc mau chóng thu xếp hàng họ quay trở về nhà.Một lát sau trời trở lại bình thường như không có chuyện gì xảy ra nhưng chợ đã vãn người đã thưa, đường phố vắng vẻ, Vũ Sinh đứng ngơ ngác một hồi, buồn bã gói mấy quyển sách cũ vào trong tay nải lửng thửng bước về nhà.Hoa đào của mấy nhà dân hai bên đường có những cây đã bắt đầu nở hàm tiếu, màu hồng phơn phớt khoe sắc như báo hiệu một mùa xuân sắp đến trên đất kinh kỳ.

       Đêm ba mươi năm nay thật buồn. Đã năm năm rời xứ Thanh lên Thăng Long đầy ngựa xe phồn hoa nầy, Vũ Sinh vẫn tưởng sẽ tìm được con đường sáng để đem tài học của kẻ sĩ đem thi thố trước thời cuộc đầy biến động nầy.Ngoài bắc,nạn kiêu binh tác yêu tác quái,  Vua Lê Chúa Trịnh ngày đêm tiệc tùng trác táng, sưu thuế nặng nề.Trong nam, Chúa Nguyễn hùng cứ một phương,phân chia ranh giới. Vũ Sinh bước ra ngoài hiên cửa nhìn về phương trời xa , bất giác cất giọng u hoài:
       - Đời ta đến thế nầy thôi sao?
       - Sao lại thế nầy? Công tử có tâm sự ư?
       Nghe tiếng người, Vũ Sinh sửng sốt quay người lại, một người con gái xuất hiện từ lúc nào. Môi hồng,da phấn, nét mặt thanh tú,mái tóc dài mềm mại xỏa một bên vai, khoác chiếc áo choàng trắng, một người con gái đẹp nếu không nói là tuyệt thế giai nhân. Dưới ánh sáng chập chờn của ngọn bạch lạp càng tăng thêm vẻ quyến rũ, ma quái của cô gái, Vũ Sinh cảm thấy rờn rợn nhưng cố trấn tỉnh hỏi:
       - Nàng là ai? Từ đâu đến?
       Thiếu nữ nhìn Vũ Sinh mỉm cười:
       - Là ai ư? Công tử cần chi biết thân thế thiếp.Thiếp là người từ lâu hâm mộ tài kể chuyện của công tử nhưng chưa có dịp diện kiến.Sáng nay nghe công tử kể truyền thuyết Chiếc áo thiên nga nên thiếp đến gặp công tử nhờ giải mối oan tình.
       Vũ Sinh kinh ngạc:
       -  Chiếc áo thiên nga? Giải mối oan tình? Cơn lốc sáng nay chẳng lẽ có liên quan đến nàng? 
       -   Phải, cơn lốc ban sáng do thiếp tạo ra để phản đối cách nhìn nhận vấn đề chưa đúng của công tử về công chúa Mỵ Châu.Truyền thuyết còn nhiều uẩn khúc mà công tử chưa biết tường tận đấy thôi.
       Trong thâm tâm họ Vũ có cảm giác hơi khó chịu vì bị chê kiến thức còn khiếm khuyết, người chê lại là cô gái xinh đẹp,chàng cố dằn lòng:
       - Câu chuyện có nhiều uẩn khúc,xin được lắng nghe nàng giải thích?
      - Công tử thật lòng muốn nghe ư?
      - Vâng! Nàng cứ nói.
      Giọng người con gái trở nên xa xăm như muốn đưa Vũ Sinh về thuở hồng hoang của thời kỳ dựng nước Âu Lạc:
       Truyền thuyết kể rằng sau khi đánh tan quân xâm lược nhà Tần và thôn tính được nước Văn Lang,Thục Phán lên ngôi lấy hiệu là An Dương Vương, thành lập nước Âu Lạc.An Dương Vương là vị vua có tầm nhìn trông rộng thấy kinh đô cũ của nước Văn Lang không phải là nơi có thể định đô xây dựng đế nghiệp lâu dài, ông cho thầy địa lý đi khắp cõi Âu Lạc tìm thế đất thịnh vượng để xây dựng kinh đô mới.Các thầy địa lý tìm kiếm hàng tháng trời về báo lại, có một vùng đất có vị trí đắc địa có thể khống chế một vùng rộng lớn cả đồng bằng lẫn sơn địa. Đó chính là Cổ Loa. Khi quyết định dời đô từ Phong Châu về Cổ Loa, đoàn thuyền của vua chứng kiến cảnh chín con rồng quần thảo một hòn ngọc lớn. Vua cho đấy là điểm lành nên chọn đúng nơi mà chín con rồng quần thảo để xây chính điện. Trong cuộc giao tranh, một con rồng khỏe nhất chiếm lĩnh được hòn ngọc và ngậm vào mồm. Nhưng nó cũng bị hỏng một mắt sau cuộc chiến đó. Bởi chính An Dương Vương đã dùng bảo kiếm của mình chọc thủng mắt rồng để quy phục bản tính hung dữ của nó. Thành Cổ Loa xây nhiều lần vẫn không xong, An Dương Vương khấn thần phật giúp đở, Thần Kim Quy hiện lên giúp vua tiêu diệt yêu quái thành mới xây xong.Thần còn tặng cho vua chiếc móng và sợi dây gân của loài giao long sống lâu năm ở biển đông để làm vũ khí giữ thành.An Dương Vương sai Cao Lỗ một vị tướng tài tạo thành chiếc nỏ thần kỳ,dùng móng rùa thần làm lẫy, gân giao long làm dây nỏ.Chiếc nỏ rất lớn và rất cứng khác xa nỏ thường.Mỗi lần bắn có thể phát ra hàng trăm mũi tên tiêu diệt rất nhiều quân địch và có thể bắn liên hoàn nên hiệu quả sát thương rất cao. Để sử dụng tốt chiếc nỏ thần kỳ cần có nhiều tướng sĩ có sức mạnh phi thường.
        Nhờ chiếc nỏ thần kỳ mà Âu Lạc đã nhiều lần đánh bại cuộc xâm lăng của Triệu Đà chúa đất Nam Hải.Triệu Đà thấy Âu Lạc sản vật nhiều,phong phú nên tìm mọi cách để mở mang lãnh thổ,bành trướng thế lực về phương nam.Nhưng Âu Lạc có nỏ thần, quân Nam Hải bị giết hại rất nhiều nên đành rút lui tìm cơ hội khác.Triệu Đà thấy việc dùng binh không có lợi, bèn xin giảng hòa rồi sai con là Trọng Thủy làm sứ giả qua cầu thân nhằm tìm cách phá chiếc nỏ thần, vũ khí lợi hại của dân Âu Lạc.
       Trọng Thủy là người con hiếu thuận nhưng chàng lại không thích chiến tranh,nhiều lần chàng khuyên cha nên lấy tình hòa hiếu đối với lân bang nhưng Triệu Đà không nghe.Sợ Trọng Thủy làm hỏng đại sự của mình, Triệu Đà đã cử một gia tướng thân cận giả làm người hầu cận của Trọng Thủy để nắm lấy nội tình của Âu Lạc mà chính Trọng Thủy cũng không hề hay biết.Trong những ngày làm sứ giả đi lại kết tình hòa hiếu,Trọng Thủy gặp được Mỵ Châu, nàng công chúa mắt phượng mày ngài, nhan sắc tuyệt trần, con gái yêu của An Dương Vương.Trai tài gái sắc gặp nhau,họ yêu nhau tha thiết đắm say.An Dương Vương thấy đôi trẻ gắn bó với nhau như hình với bóng, nghĩ việc kết thân sẽ làm tăng thêm mối giao hảo giữa hai nước giảm đi cái họa ngoại xâm từ nước láng giềng phương bắc nên nhà vua liền gả Mỵ Châu cho Trọng Thủy. Để làm nguôi ngoay nỗi nhớ quê hương của Trọng Thủy, không nơi nào trong thành Cổ Loa mà Mỵ Châu không đưa Trọng Thủy đến xem,thưởng ngoạn, kể cả những nơi bố trí canh phòng cẩn mật.Một lần Trọng Thủy nhớ cuộc chiến tranh giữa hai nước trước kia bèn hỏi:
        -  Nàng ơi! Bên Âu Lạc có bí quyết gì mà chiến thắng ngoại xâm vậy?
         Mỵ Châu vô tình đáp:
        - Nào có bí quyết gì đâu chàng. Âu Lạc có thành cao, hào sâu vững chắc, tướng sĩ tinh thần chiến đấu dũng mãnh,tinh nhuệ, lại có chiếc nỏ thần kỳ một phát bắn ra có thể tiêu diệt hàng trăm quân địch thì giặc nào mà không thất bại hở chàng?

       Rồi Mỵ Châu đưa Trọng Thủy đến nơi cất nỏ thần, giải thích cho chàng biết cách chế tạo, sử dụng nỏ thần.Tất cả những sự việc đó điều được tên gia tướng đi theo hầu cận  ghi chép đầy đủ,tìm cách đánh trao lẩy nỏ bí mật chuyển về Nam Hải . Nhằm phá thế phòng ngự của Âu Lạc, Triệu Đà đã gởi sang tặng An Dương Vương một đoàn nữ nhạc nhan sắc tuyệt trần,ca hay múa giỏi, những loại rượu ngon, đặc sản của miền Nam Hải để vua quan Âu Lạc chìm đắm trong men say tửu sắc. Quả nhiên An Dương Vương đã rơi vào bẩy của Triệu Đà.Thấy thời cơ đã đến,Triệu Đà viết thư triệu hồi Trọng Thủy về nước để chống giặc vì quân Tần phương bắc lại quấy nhiễu biên cương.Thấy chồng nhận thư có vẻ buồn bã bồn chồn, Mỵ Châu liền hỏi:
       -  Hình như chàng có điều gì không vui?
       Trọng Thủy nhìn nàng đáp:
       -  Phụ vương triệu hồi ta về nước cầm quân chống giặc Tần xâm lược. Lần nầy về nước, lại đi phương bắc xa xôi chinh chiến, lành ít dữ nhiều, không biết ngày nào có thể gặp lại nàng, lòng ta cảm thấy bất an.
        - Chàng đi lần nầy xa xôi nghìn dặm, vì nước lòng em không cản, nhưng biết đến bao giờ chúng ta được gặp lại nhau?
       - Nàng ơi, nếu chẳng may giặc giả xảy ra, nàng không còn ở chốn nầy, ta biết tìm nàng phương nào?
       - Thiếp có chiếc áo lông ngỗng trắng, hễ thiếp chạy về phương nào,thiếp sẽ rải lông ngỗng trên đường đi, chàng theo đó mà tìm thiếp.
       Nói xong Mỵ Châu khóc nức nở.

       Trọng Thủy về nước cũng là lúc Triệu Đà phát động chiến tranh với Âu Lạc.Nỏ thần mất hiệu nghiệm, tinh thần chiến đấu của quân sĩ bạc nhược, những nơi phòng thủ xung yếu bị chọc thủng nhanh chóng, quân Nam Hải ùa vào thành. Bấy giờ An Dương Vương mới vội lên ngựa, để Mỵ Châu phía sau ra khỏi cửa thành chạy về phương nam, trên đường ngựa chạy Mỵ Châu đã rải lông ngỗng theo để Trọng Thủy theo dấu mà tìm nàng.
        Ngựa chạy liền mấy ngày đêm, đường bôn tẩu càng xa đường núi càng gập ghềnh hiểm trở, đến chân núi Mộ Dạ thì đường hết, trước mặt là biển cả mênh mông.An Dương Vương dừng ngựa ngửa mặt lên trời kêu:
        -  Trời đã tuyệt đường ta rồi.
        Nhà vua vừa than xong thì một cơn lốc mạnh bốc bụi cát lên cao, biển dậy sóng mù mịt.Thần Kim Qui hiện lên trong cơn sóng dữ, giọng rền vang:
       -  Người tiếp tay với giặc ở sau lưng nhà vua đó.
        An Dương Vương chợt hiểu, Mỵ Châu khóc nói với cha:
       -  Con trẻ lòng sáng như nhật nguyệt đâu ngờ âm mưu của kẻ thù gây họa mất nước.Con xin lấy cái chết để đền tội với non sông.
        Nàng nhìn về đường cũ than:
                   Lông ngỗng bay theo đường bôn tẩu
                   Vó ngựa vùi chôn khối u tình
                   Sóng biển chưa tan hồn huyết lệ
                   Trách chàng dứt nghĩa dấy đao binh.
       Rồi rút gươm của vua cha tự vẫn chết,máu nàng loang cả một vùng biển.An Dương Vương ôm xác con khóc, nhà vua hiểu chính mình mới là người tạo nên thảm họa diệt vong của đất nước, con trẻ nào có tội tình gì. Đau buồn, hối hận nhà vua định đưa gươm lên kết liễu đời mình, thì Thần Kim Qui cất tiếng:
       - Xin người dừng tay, người còn trách nhiệm với đất nước nầy.Ngày sau ta sẽ giúp người phục quốc, xây dựng lại cơ đồ đã mất. Long Quân đang chờ đợi người,hãy đi ngay kẻo không kịp.
       An Dương Vương ngậm ngùi nhìn về cố quốc giây lâu rồi bước xuống biển. Lạ thay nhà vua bước tới đâu thì nước biển dạt ra tới đó,phút chốc nhà vua đã mất hút vào lòng biển khơi.
       Trọng Thủy khi biết được sự tình thì đã muộn.Từ Phiên Ngung chàng vội vã phi ngựa ngày đêm về Cổ Loa, đến nơi thì thành quách đã tan tành,khói lửa ngút trời.Theo lời ước hẹn,Trọng Thủy theo đường lông ngỗng xuôi về phương nam thì không còn kịp nữa.Chàng ôm xác Mỵ Châu khóc than,lòng đầy hối tiếc.Tham vọng bá quyền của vua cha đã đẩy hai dân tộc vào cuộc binh đao tàn khốc.Trọng Thủy đưa xác Mỵ Châu lên bè chèo ra biển khơi hường về hoang đảo,mong tìm một cuộc sống an nhiên giữa cỏ cây hoang dã chỉ có chàng với những hoài niệm về một mối tình trong sáng,trái ngang bị tham vọng của người đời vùi dập, chia rẻ.
        Vũ Sinh buột miệng nói:
       -   Thế còn truyền thuyết giếng ngọc?
       -   Do người đời sau thêm vào để tăng thêm bi kịch cho cuộc tình đầy oan trái của Trọng Thủy-Mỵ Châu mà thôi.
        Vũ Sinh vô cùng ngạc nhiên vì đây là lần đầu tiên chàng được nghe kể câu chuyện ly kỳ có nhiều tình tiết mới mẻ đến thế, chàng thắc mắc hỏi giai nhân:
       - Nhưng trong chính sử từ xưa đến nay vẫn chép như thế ?
       Giai nhân lắc đầu cười buồn:
       - Công tử đừng nghĩ rằng chính sử bao giờ chép cũng đều đúng cả, cũng như dã sử, ngoại truyện là do người đời thêu dệt nên, tất cả đều có nguyên nhân của nó.
       Vũ Sinh nhìn giai nhân, lòng đầy nghi hoặc:
       -   Vì sao nàng lại biết biết rõ tường tận đến thế? Chuyện nầy xảy ra trên ngàn năm rồi còn gì? Chẳng lẽ nàng là…
      Vũ Sinh hoảng hốt, ngập ngừng không nói hết câu, người phụ nữ xinh đẹp khoác chiếc áo choàng trắng đứng trước mặt mình lại là công chúa Mỵ Châu hơn ngàn năm về trước? Như đoán được tâm trạng của Trần Sinh, giai nhân nhìn chiếc áo mình đang mặc, khẻ gật đầu nói:
       -   Công tử đoán không sai, thiếp chính là Mỵ Châu trong câu chuyện Chiếc áo thiên nga mà buổi sáng hôm nay công tử kể cho mọi người nghe .Nỗi oan tình suốt cả ngàn năm của thiếp đã động lòng trời cao, nên thiếp và công tử mới có cơ duyên gặp mặt.
       Vũ Sinh ngạc nhiên,chưa hiểu:
       -   Ý nàng muốn nói là…
       -   Nhờ công tử giải oan tình cho thiếp.
       -   Bằng cách nào?
       -   Như cách công tử từng làm.
       -   Nghĩa là...
       Vũ Sinh chợt hiểu, chàng ngập ngừng:
        -  Ta e khó lay chuyển tình thế.
        -   Vì sao?
        -   Vì truyền thuyết đó đã ăn sâu vào tận xương cốt của dân chúng rồi, giờ bắt họ chấp nhận một thực tế khác thì chẳng khác nào bảo họ phải đạp đổ thành trì tư tưởng từ lâu hay sao?
        Giai nhân có vẻ trầm ngâm:
        -   Đó có lẽ là một điều rất khó đối với công tử.Thiếp chỉ khuyên công tử một điều khi đã biết tường tận đúng sai một vấn đề thì phải biết thay đổi hành động việc làm,  đừng đem những lời nói sáo rổng mê hoặc lòng người như trước, về sau hối hận không kịp.
        -   Thế nàng bảo ta phải làm thế nào?
        -   Là kẻ sĩ đứng trước thời cuộc nghiêng ngửa nầy công tử chưa có dự định gì cho mình sao?
        -   Xin nghe nàng nói.
         -   Đàng Trong là nơi đất lành chim đậu, long vân hội tụ, công tử có thể khởi nghiệp cho mình.
        Vũ Sinh như bừng tỉnh một giấc mộng dài,chấp tay cung kính:
       -  Cám ơn nàng đã nhắc nhở.
       Giai nhân đừng dậy mắt nhìn ra cửa:
         - Năm cũ đã tận,Thời khắc chuyển giao đã tới,Thiếp đi đây.
       Vũ Sinh hoảng hốt nói:
         - Thế còn có dịp gặp lại nhau không?
       Giai nhân nhìn chàng mỉm cười:
       -    Chúng ta gặp nhau đêm nay đã là cơ duyên rồi.Thiên đình cảm thông nỗi oan tình của thiếp cả ngàn năm nên cho phép thiếp gặp chàng nhờ chàng giải tỏa những oan ức mà thiếp phải mang.Nay khối u tình đã dứt thiếp được thiên đình cho phép tái sinh về phương nam trong gia đình họ Trần. Nếu thật sự có duyên số chúng ta sẽ gặp lại nhau.
       - Làm sao để nhận ra nhau?
       - Khi công tử thấy cô gái nào mang áo choàng lông ngỗng là thiếp.
       Nói xong giai nhân bước ra cửa đi thẳng, phút chốc đã biến mất, chỉ còn thoảng lại mùi hương phảng phất trong phòng.Vũ Sinh bàng hoàng như không tin vào mắt mình. Đêm trừ tịch năm đó chàng không ngủ được.

      Từ đó người ta không còn thấy chàng thư sinh họ Vũ ra chợ kể chuyện nữa.Có người nói chàng đã vào núi tu tiên rồi nhưng thật ra Vũ Sinh đã bí mật vượt đèo Ngang vào tụ nghĩa dưới trướng của Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên.Chàng lấy lại họ Đào giúp Chúa Nguyễn xây thành đắp lũy, chặn đứng nhiều đợt nam tiến của bắc quân đàng ngoài lập nhiều chiến công hiển hách, được quan khám lí họ Trần gã con gái cho.Còn việc chàng có gặp lại giai nhân trong đêm trừ tịch hay không thì không thấy dị sử chép lại.
             
Tháng 6/2013
Nguyễn An Bình
      
* Thơ Tố Hữu


READ MORE - Truyện ngắn truyền kỳ: CHIẾC ÁO THIÊN NGA - Nguyễn An Bình

HƯƠNG CAU - thơ xướng họa - Trương Đình Đăng, Trần Ngộ, Lê Đăng Mành


Mời họa:

HƯƠNG CAU

Cau lại lên mùa ngan ngát hương
Thơm tho níu bước kẻ qua đường
Mao phô tuổi ngọc ong tình tự
Phấn tỏa xuân đời bướm vấn vương
Tàu rụng nhớ cơm thời định số
Mo khô nhắc nước cảnh vô  thường
Bâng khuâng đứng lặng nghe lời gió
Hoa đậu vai gầy tóc điểm sương.

                     Phương Ngữ - Trương Đình Đăng



HƯƠNG BƯỞI
(Tùng vận bài hương Cau)


Dâng đời - hoa bưởi ngát lừng hương
Ong bướm đua chen mọi ngõ đường
Nụ nhú nào ai bày ý tưởng
Cánh xòe lắm kẻ tỏ tơ vương
Trinh nguyên ủ tóc thì con gái
Dung dị khoe duyên giữa thế thường
Từng đã thay lời khi khó nói
Tiễn người ra trận lệ hòa sương

                        Phương Ngữ - Trương Đình Đăng




NHỚ BẠN

Bè bạn ngày xưa học một trường
Bây giờ trôi dạt khắp ngàn phương
Người vô Đồng Tháp đeo cày ruộng
Kẻ ở Tây Ninh bám cuốc vườn
Chân lấm áo sờn trưa dãi nắng
Tay bùn quần nám sáng dầm sương
Mừng ai xiêu lạc nơi thành thị
Buôn bán làm ăn cảnh phú cường

                        TRẦN NGỘ
                        Lâm Đồng



Bài họa:

Y ĐỀ

Nhớ sao bè bạn học chung trường
Thế sự xoay vần đứa một phương
Kẻ mướt mồ hôi lo chợ búa
Người sôi nước mắt bám nương vườn
Thương bao kiếp phận hoàn tro bụi
Xót bấy trang đời gội gió sương
Mong ước trời cho mau đổi vận
Chung xây nước thịnh với dân cường.    

                        Phương Ngữ - Trương Đình Đăng

                        Đà Nẵng



Bài họa:

VỊNH SEN

Ngọn lào gom tỏa ngát thơm hương
Sen vẫn ưa bay ngõ thiện đường
Mùi phất ong vờn đâu dám ghé
Sắc chưng bướm lượn chẳng hề vương
Thân gầy đỡ lá che vô ngại
Ngó gảy phun tơ luyến bất thường
Hạnh đức không tham làn gió đẩy
Dâng đời trà ẩm gói phong sương


                             Lê Đăng Mành
READ MORE - HƯƠNG CAU - thơ xướng họa - Trương Đình Đăng, Trần Ngộ, Lê Đăng Mành

GẬY TRƯỜNG SƠN - thơ Hoàng Đình Chiến


(Thân tặng K.D và các bạn lớp GP.10)

Đôi lần suy tính thiệt hơn
Bất ngờ ngó gậy Trường Sơn góc nhà
Chỉ là cành nhỏ rừng già
Mà nâng bước dặm ngàn xa bao người.


Đồng đội ơi! Đồng đội ơi!
Ai còn ai mất, ai người nằm đâu?
Ai may mắn số sang giầu
Ai đang vật vã chất mầu da cam?                   


Một thời cộng khổ đồng cam
Giờ đây gậy hóa đa đoan cuối đời
Khi trái nắng, lúc bạn mời
Đi đâu cũng gậy, ngỡ trời bão giông.


Khác chi cá chậu chim lồng
Gậy Trường Sơn gắn với ông kiếp này?
Lỡ rồi, ngậm đắng nuốt cay
Chắp tay tạ tội gậy này- Trường Sơn.


Kỷ niệm Họp mặt 40 năm lớp GP.10
Tháng 3-2013

HOÀNG ĐÌNH CHIẾN
hoangdinhchien48@yahoo.com

READ MORE - GẬY TRƯỜNG SƠN - thơ Hoàng Đình Chiến

CỐ HƯƠNG - MILLY OU LA TERRE NATALE - Alphonse de LAMARTINE (1790-1869) – Billy Nguyen phỏng dịch

Billy Nguyen



Pourquoi le prononcer ce nom de la patrie ?
Dans son brillant exil mon coeur en a frémi;
Il résonne de loin dans mon âme attendrie,
Comme les pas connus ou la voix d'un ami.

*Montagnes que voilait le brouillard de l'automne,
Vallons que tapissait le givre du matin,
Saules dont l'émondeur effeuillait la couronne,
Vieilles tours que le soir dorait dans le lointain,

*Murs noircis par les ans, coteaux, sentier rapide,
Fontaine où les pasteurs accroupis tour à tour
Attendaient goutte à goutte une eau rare et limpide,
Et, leur urne à la main, s'entretenaient du jour,

* Chaumière où du foyer étincelait la flamme,
Toit que le pèlerin aimait à voir fumer,
Objets inanimés, avez-vous donc une âme
Qui s'attache à notre âme et la force d'aimer?




Quê hương đó giờ đây xa biền biệt
Đời lưu vong tôi cứ mãi mơ về
Có còn đó hàng cây vương nắng hạ?
Xanh dờn ruộng lúa cánh đồng quê?

Còn đó vườn xưa màu sương trắng?
Gió thu lành lạnh gió thu sang
Hàng liễu chờ ai quàng vương miện?
Đợi gió thu về đứng chịu tang

Còn đó hắt hiu những đường quê?
Chiều chiều lững thững đàn trâu về
Hoàng hôn buông xuống mờ phai nhạt
Tiếng sáo vờn bay buồn lê thê

Quê tôi! quê tôi! quê tôi đó
Giờ đây xa xăm cát bụi mờ
Xót xa trong tôi màu ly biệt
Duy chỉ còn đây một niềm mơ./.


Billy Nguyen
(Hong Kong)
READ MORE - CỐ HƯƠNG - MILLY OU LA TERRE NATALE - Alphonse de LAMARTINE (1790-1869) – Billy Nguyen phỏng dịch

CHÙM THƠ NHÀ XƯA (Nhân dịp Father’s Day 16 June 2013) - Lê Ngọc Phái

    
                                     


NGÀY CHA MẤT 

Cha đi gió nổi bờ đông
Mẹ buồn nước mắt lưng tròng xót thương
Phu thê sáu chục năm trường
Sớm khuya ấm lạnh con đường trần ai
Hồn cha lặng lẽ về trời
Tim con đau nhói không lời thở than
Một đời lắm nỗi gian nan
Bôn ba xuôi ngược lo toan gia đình
Lắm khi túng thiếu vây quanh
Đến ngày con cháu nên danh mất rồi
Thương cha thương mãi cha ơi! 



MẸ VỀ 

Mẹ về cùng ánh trăng rằm
Lặng soi sáng chỗ con nằm ngày thơ
Lo con nắng tạt mưa lùa
Mẹ, khi vào đất vẫn chưa dịu lòng! 



NHÀ XƯA 

Nhà xưa vắng bóng mẹ hiền
Sân xưa vắng bóng cha bên khóm lài.
Tưởng như mẹ bận chợ mai
Cha ra phố huyện chiều phai, lỡ tàu.
Gọi Người biết gọi nơi đâu?!
Nhấp nhô hương khói trên màu cỏ xanh! 



BÓNG CẢ 

Từ trên chín bậc cao xanh
Mẹ cha để lại phúc lành cháu con
Dấu chân bậc cửa đã mòn
Phía hư không ấy biết còn bão giông?
Tình cha nghĩa mẹ - cánh đồng
Thảo thơm cây trái dòng sông đắp bồi
Mẹ cha dẫu hóa mây trời
Vẫn như bóng cả cây đời chở che.

Lê Ngọc Phái



READ MORE - CHÙM THƠ NHÀ XƯA (Nhân dịp Father’s Day 16 June 2013) - Lê Ngọc Phái