Nguyễn Văn Trình và Lê Đàn
Nhân đọc tập thơ
"Mây Trắng Bên Trời"
của Nguyễn Văn Trình,
NXB Thuận Hóa
Những vần thơ
của thầy giáo Nguyễn Văn Trình trong tập thơ “ Mây rắng bên trời” mang đậm chất
“Thầy” trong đó, cái chất của nhà mô phạm thể hiện rất rõ trong những
bài thơ là những câu chuyện kể về :
“Cha tôi”, về “bạn bè, về đứa học trò thi rớt, về em
bé nghèo bán bánh mì…”
Đó là những vần thơ đạo lý, chan chứa tình người.
Đặc biệt, những vần thơ thầy viết về :“Bướm trắng hồn nhiên” (cách gọi những em học
trò đáng yêu của thầy), đã lấy được nước mắt của một độc giả già như tôi :
“…Đó là bài
giảng cuối cùng cho em,/ Mà sáng nay thầy giảng/ và bắt đầu một cuộc chia tay…/
Vội vàng cái buổi chia tay/ Không phải lần đầu sao thầy rưng rức/ Cả lớp nôn
nao…một thoáng ngậm ngùi…/ Rồi tiếng cười thay nước mắt” (Bài
giảng giờ chia tay).
Tại
sao vậy? Một người tuổi đã xế chiều dễ gì có thể khóc chỉ vì một bài thơ tuổi
học trò???!!! Vậy mà tôi đã “ướt mi”
khi đọc bài thơ trên của thầy. Có một nhà thơ đã xúc động đến tuôn trào giọt lệ
khi nghĩ về thời thơ ấu trong lúc đang ngồi một mình giữa canh khuya trọ học
nơi thành phố hoa lệ : “Đôi mắt ướt, tuổi vàng, khung trời hội cũ/ Áo màu
xanh không xanh mãi trên đồi hoang…/ Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ/ Bụi đường
dài gót mỏi đi quanh” (Tuệ Sỹ).
Còn
Nhạc sỹ Quốc Bảo dù không ứa lệ nhưng cũng cay cay một chút ấu thơ: “Còn
gió mát giữ cho thu vàng/ Còn bát ngát giữ cho xuân tràn/ Còn xa xôi giữ cho
nhau hình bóng/ Còn vòng tóc rối giữ cho vai em mềm/ Còn giấy mới giữ cho câu
thơ u huyền/ Còn ta, ta giữ lại cho ấu thơ” (Giữ lại cho ấu
thơ-Nhạc QB)
Những vần thơ về tuổi học trò của thầy
hay đến lạ:“ Nhớ mùa xanh, lá vẫy môi chào/ Ôi hồn nhiên, ngọt nắng chiêm
bao” (Hoài niệm). Pha lẫn một chút “yêu” hồn nhiên chất chứa: “Sao
giấu nỗi, tình yêu nén chặt/ Trái tim anh thắp lửa phượng hè ơi”
(Ngày tựu trường). Ai bảo thầy giáo trẻ không đa tình?! – Có đấy, nhưng thật là
kín đáo : “Mùa cúc tím và những chiều ngóng đợi/ Em dịu dàng ngọn
gió cứ đầy vơi” (Chiều An Lạc).
Cũng có lúc ngồi một mình giữa canh
khuya nhưng thầy chỉ tự hỏi: “Em về mây tím hoa mua/ Đường côi mấy nẻo gió
lùa hồn anh” (Em về bên ấy). Đôi lúc cái ta đâu khổ xuất hiện
trong thơ thầy: “Em về/ Nỗi buồn chan đáy mắt/ Khoảng trời nào màu trắng
phủ bông lau/ Ta đau đớn nhặt mưa xâu thành chuỗi/ Cứ ngỡ rằng vương
miện của quân vương” (Em về). Bây giờ cái ta đã chuyển sang cái tôi
vụt ra khỏi tâm thức tìm kiếm: “Tôi đi tìm em/ Tìm trong ký ức/ Mênh mông,
rộng dài nỗi nhớ/ tôi chạm phải trái tim nức nở/ Nghe nhói đau/ Trống vắng./Nỗi
niềm…/ Em-Ảo ảnh,/ Còn tình tôi, rất thực” ( Em-Ảo ảnh).
Nhưng “đau đớn” đâu dễ gì ngự trị mãi
trong tâm tưởng của cái “tôi” vốn đáng ghét (?!). Thầy đã biết tỉnh thức quay trở về với thực tại nhiệm mầu, để có
những khoảnh khắc thăng hoa toả sáng tuệ giác tinh hoa để viết lên những bài
thơ có chữ “AI?” hay đến
lạ như:
“Em về…/Để mình ai, trống vắng, đợi chờ” (Em
về)
“Em về chiều hoá mây bay/ Để ai ngơ ngẫn, nỗi này ai mang” (Vô đề 4)
“Ai về ngày tháng chông chênh/ Để ai ở lại thác ghềnh ai ơi” (Vô đề 5)
“Em,/ Chuyện mưa nắng cuộc đời vẫn thế/ Buồn vui chớp nhoáng đời người/
Khi em vẫn là nỗi nhớ/ Dày vò ai cái thuở xa thương/…Em về cho ai chơi vơi…” ( Em về cho ai chơi vơi)
Tác giả đã nhắc đi, nhắc lại nhiều lần chữ
“Ai?”. “Ai”... có phải là cái tôi đau khổ hôm qua không?! Ai không phải là ngôi
thứ nhất số ít trong tiếng Anh, càng không phải là thất tình lục dục (Hỉ, nộ, ái ố,
ai, cụ lạc). Ai chơi vơi?! Đâu phải là “tôi” chơi
vơi. Đúng như một vị thiền sư đã dạy chúng tôi trong một khoá tu thiền: “Khi
thực tập thiền định được một thời gian thì cái tôi (Bản ngã) của quý vị sẽ biến
mất trong thời gian mình ngồi tĩnh toạ, lúc đó tâm mình ở trong trạng thái
“Định”, cái cảm giác đau hoặc tê chân sẽ biến mất, vì đâu còn cái tôi nữa để mà
đau. Các thi sĩ cũng có được trạng thái này lúc sáng tác. Nhưng khi xả thiền
thì cái tôi quay trở lại, và cái cảm giác tê chân hay phiền não cũng quay trở
về y nguyên như cũ…”
“Ai” có thể là một câu hỏi, cũng có thể là
một từ phủ định ai chứ không phải là tôi. Cái tôi vừa mới nói với em rằng nắng
mưa là chuyện của trời, “Buồn vui chớp nhoáng đời người”,
đành rằng biết như vậy nhưng khi xa em làm sao không nhớ, làm sao không dày vò.
Nhưng, như vị thiền sư giảng về Thiền định, nhà thơ đã ở trong trạng thái
“Định” cho nên đã biến mất cái tôi bị dày vò, sự dày vò và phiền não tạm thời
lùi ra, để nhà thơ đang trong trạng thái nhập định đã “THẤY” cái dày vò, cái chơi vơi, cái đau khổ là của ai đó, chứ không
phải của tôi. Thật lạ, và cũng thật diệu kỳ cái khoảnh khắc đó. “Vâng chỉ
có nơi đó, nơi đó ta mới thật sự thống khổ triền miên, mới muộn phiền sảng khoái” (Huy Tưởng). Dù phút
giây biến mất cái tôi đáng ghét đó chỉ trong thời gian rất ngắn, nhưng cũng đủ
cho nhà thơ có được những vần thơ vượt thoát cái tầm thường nhân thế. Và những
câu thơ chơi vơi khiến lòng tôi mê mẫn chơi vơi giùm cho tác giả, tôi đã tìm
thấy trong bài thơ chơi vơi sẵn có một giai điệu đẹp, bài hát “ Chơi vơi”
hình thành từ bài thơ có nhiều chữ “Ai” ấy.
Cái chơi vơi ấy thực ra là “của ta”,
nhưng ta cứ cho là của ai đi cho nó nhẹ người.Thầy giáo- nhà thơ Nguyễn Văn
Trình rất giỏi, vì đã hoá giải được nỗi u sầu nhân thế khi tìm ra được một chữ “AI”
trong ngôn ngữ tiếng Việt để thay cho cái tôi hay là cái ta hoặc nói một cách
triết học hơn là cái “bản lai diện mục”, tất cả các thứ tên gọi ấy nhiều khi
rất đáng yêu, nhưng nhiều khi cũng rất đáng ghét. Tôi đã phổ nhạc liền một mạch
5 bài thơ trong tập thơ đầu tay của thầy trong đó có bài thơ: “Em về cho ai
chơi vơi”. Đó có lẽ là cái duyên giữa thơ và nhạc, là cái duyên giữa tôi và thầy giáo-thi sĩ
Nguyễn Văn Trình .
Hành trình của thơ đồng hành cùng dòng
chảy của ý và tưởng trong dòng sông tâm thức vốn không ngưng nghỉ. Thơ có sẵn
trong tàng thức của mỗi người, nhưng vấn đề là người ta có chịu khó lấy thơ ra
hay không?!
Khi thầy giáo làm thơ, thầy đã chịu khó lấy ra những bài thơ hay đầy chất “Nhân
văn”, những bài thơ của thầy đẹp như những nụ hoa thơm ngát,
và tập thơ của thầy
sẽ là một vườn hoa đầy hương sắc tô điểm cho cuộc đời đáng yêu này!
Tôi
muốn nhắn nhủ những người thầy giáo từ trước đến giờ dù ít,dù
nhiều đã từng làm thơ, thì nay quý vị nên ngay lập tức lấy
thơ ra, vì nó
đã có sẵn ở trong kho tàng thức của quý vị. Khi người thầy làm thơ thì những
bài thơ ấy hay lắm, rất hay! Thơ thầy giáo bao giờ
cũng mang đậm chất nhân văn và những bài thơ ấy luôn là những bông hoa đẹp.Tôi nói thật đấy! Quý vị thử coi?! Riêng tôi, tôi gọi những bài thơ trong tập thơ : “ Mây trắng bên trời” của
thầy giáo- thi sĩ : Nguyễn Văn Trình là những “ Vầng mây không trôi”,bởi những bài thơ ấy luôn day dứt và ám ảnh
tôi, để lại cho tôi những ấn tượng khó phai mờ sau mỗi lần đọc.Tôi
tin những “ Vầng mây không trôi ” sẽ
còn mãi với trời xanh mây trắng !
Viết tại Đông Hà ngày 10/7/2011
Lê Đàn