Tác giả Ugno.Vn
ĂN KỴ
Lệ thường, mỗi sáng thức dậy là hắn cố lục lọi trong trí óc hôm nay
đến lượt nhà nào. Trí nhớ của hắn còn khá tốt. Họ gần, họ xa, láng giềng, làng
nước, xóm trên, xóm dưới… hắn nhớ vanh vách. Thế mà cái bữa kỵ chết tiệt nhà mụ
Đẹt xóm trên, cho uống thứ rượu chi thơm thơm, cay cay, uống vào dễ đưa cơm như
bỡn, mà tối ấy về hắn say đáo để, say sật sừ, đầu nhức như búa bổ. Cái tính
rượu vào lời ra, khua chân múa tay thâm căn cố đế của hắn không phát huy tác dụng. Hắn lủi thủi bước
hụt mấy lần mới lên được bậc đá ngoài ngõ. Cái bậc đá thấp thôi, chỉ đủ
ngăn dòng nước mưa từ sân chảy xuống xói mòn, cuốn trôi đất cát của con dốc từ
nhà ra xóm. Thường ngày hắn chẳng để ý, thế mà lần này, hắn bước mãi mới lên
được. Vợ hắn cũng ngạc nhiên khi hắn lù lù xông vào cửa lớn rồi đổ ập sóng soài
trên nền nhà đất. Sững sờ, trân trân trước cái xác thằng chồng già dịch,
mụ lặng đi không biết xử lý thế nào. Sau
một chốc định tâm, miệng mụ bai bải:“ Bớ thằng Cu, con Gái,… bớ làng nước… cứu
chồng tui!!!...”. La mãi chẳng thấy ai vào, mụ và hai đứa con xốc hắn lên
chõng, đặt hắn nằm ngay ngắn, rồi nguýt, rồi lườm, rồi lấy dầu xứt gió, lấy vôi
ky(1a) vào bàn chân. Đêm ấy hắn cựa
quậy mãi. Mỗi lần cựa quậy là mỗi lần hắn nôn ọe. Lúc đầu còn ít, mụ bỏ liều
cho hắn xoay xở, đến khi hắn nôn thốc,
nôn tháo, mụ đâm lo. Mụ lại ky vôi, mụ xoa dầu, mụ bắt gió, mụ quát nạt con
Gái, thằng Cu là “đồ vô tích sự”. Mụ cứ ngồi mãi bên hắn. Khi hắn đã nôn hết
thứ của quí trong bụng, ngủ yên yên vài giấc, mụ đi dọn “bãi chiến trường” của
hắn tung ra, rồi lẳng lặng vào bếp nấu bát cháo hành ngồi chờ hắn thức dậy.
Hắn nằm rịch mấy buổi, ăn hết
mấy tô cháo hành. Miệng hắn đắng nghét không buồn nói. Mụ vợ hết đay nghiến đến
mỉa mai: “Răng không tộng thêm chút nữa cho xong đi luôn”, “Rượu mụ Đẹt ngon
răng không kêu con nớ xuống coi ông uống ngon ra răng?”, “Uých…Tra đời không
trót thế!”. Hắn chỉ việc nằm quay mặt vào tấm phên tre. Khi không có mụ, hắn
vói tay tướt vài cọng phên xỉa xỉa mấy cái răng cho có việc.
Sáng nay, thấy người đã phấn chấn, hắn vươn vai bước dậy khỏi chõng.
Ăn vội chén cơm gạo đỏ bùi bùi, hắn vào bếp lấy cái gàu mo cau uống nước móc
bên ống tre, rót đầy, tu một hơi hết gàu
nước chè xanh mới nấu, còn ấm trên bếp tro. Vợ hắn và hai đứa con đã ra đồng.
“Kệ! Đó là việc của họ, can chi đến mình”. Hắn chưa khi mô thấy chén cơm gạo đỏ
hẻo rằn và gàu nước chè xanh vợ hắn nấu ngon như sáng hôm nay. Hắn nghĩ đến vợ…
“Mà thôi!...Kệ nó!...”. Hắn lại lục lọi vào trí nhớ: “Chết tiệt!...Nằm ba
ngày!...Rứa là qua cái kỵ nhà thằng Đáp hôm qua rồi!”…. “Cái thằng xấc láo! Cha
mi với tau là anh em cùng một ông cố ngoại, rứa mà kỵ cha mi, mi thấy tau nằm
đống, mi không tới mời. Đồ coi trọng miệng ăn, không nghĩ tới bà con! Thứ nớ
thì suốt đời cất trốốc(2) không nổi!”. Hắn tức nói thế nhưng nghĩ lại thằng Đáp
cũng giàu đấy chứ. Chỉ tội là suốt ngày lam lũ với con trâu, đồng ruộng chẳng
mấy khi thanh nhàn được như hắn. Hắn bĩu môi: “Đồ con ma chự(3) của!”. Hắn lại
nhớ hôm nay nhà thằng Mẻ kỵ ông nội nó. Tính trong bổn tộc nội thân, ông nội thằng
Mẻ và cha hắn tuy khác phái nhưng đồng hàng. Hắn thuộc phái nhì. Thằng Mẻ thuộc
phái sáu. Rứa là thằng Mẻ phải gọi hắn bằng bác. Thằng đó cũng là quân không
biết điều. Lần chạp họ năm ngoái, cả họ đã mắng cho nó một trận nên thân vì nó
dám ngồi vào bàn trên. Cái thằng Mẻ tuy hơn hắn mấy tuổi, râu dài và đã có vài
sợi bạc nhưng vẫn là vai cháu của hắn. Nó có tiền, có của thì huênh hoang ở
đâu, chứ về họ thì răng ngồi trên hắn được. Mà thôi! Chuyện qua rồi, chấp làm
chi cho nhọc xác. Sau một hồi ngẫm nghĩ, hắn vói tay rút cái quần trắng vắt
trên sào tre rồi cầm vội cái quạt mo cau che đầu bước ra xóm, xăm xăm đi xuống
bến sông. Dọc hai bên đường là mấy vuông nương
và cánh đồng quân điền(4) trải
dài với nhiều đám cà, ớt, bắp, đậu, kê, mè…xanh mơn mởn. Buổi sáng, bến sông
chưa bị lũ trẻ quậy phá, nước trong vắt thấy cả lớp cát vàng và đàn cá bống cát
kiếm ăn dưới đáy nước. Bến vắng người, hắn cởi tồng ngồng xuống tắm. Nước mát
lạnh làm hắn tỉnh ra. Búng mấy hớp nước sông súc miệng sòng sọc, hụp chìm cái đầu
bù xù mấy ngày không tắm gội xuống làn nước trong xanh, hắn cào cấu da đầu, xoa
xát mái tóc rồi khạc khạc nhổ nhổ, khuấy động cả một khúc sông. Hắn bấu mấy đầu
ngón tay kỳ cọ cáu ghét da thịt thấy
khoan khoái hẳn ra. Ngâm mình trong nước hắn thấy người nhẹ tênh, mát lạnh cả
lục phủ ngũ tạng đến chán chê. “Lâu rồi, Thôi! Lên thôi!”. Bình thường, trước
khi lên, hắn bơi một đoạn ra giữa dòng,
lấy tay bóp sóng mũi, hụp ngữa cái đầu
cho tóc chảy xuôi như lược chải. Nhưng hôm nay hắn thấy sợ. Sao hắn sợ nhỉ? Hắn
ngại ngần, vươn tay mấy lần định bơi ra rồi lại thôi. “Hụp đây cũng được, còn
sạch chán, ra ngoài dòng mà chi, lở…rách việc!”. Hắn lên bờ mặc vội cái quần,
trở về nhà ngồi chờ người nhà thằng Mẻ đến mời ăn kỵ chiều nay.
*
Ngồi một mình trong căn nhà rỗng toác, hắn có dịp nhìn lại mình. Dù
sao hắn cũng là con nhà gia thế.Vai vế trong họ thì là thuộc bậc trên. Trong
xóm làng thì hắn cũng là con ông bát phẩm(5).
Thân phụ hắn lúc sinh tiền là tiên chỉ(6)
trong làng chứ chẳng phải vừa. Khi còn bé, hắn bị cha hắn gởi cho ông đồ nửa
mùa ngồi dạy cho trẻ làng học chữ thánh hiền trong sách Tam Thiên Tự. Chữ nghĩa
thì bây giờ hắn đã trả lại hết cho thầy, chỉ còn lại trong hắn là nỗi nhớ về
những lần bị đét đít, gõ đầu, quì xơ mít đau điếng, lột da đầu gối. Khi có lớp
dạy chữ quốc ngữ ở trường huyện, cha hắn lại nhét hắn vào lớp vỡ lòng. Hắn lớn
tồng ngồng còn chung lớp với mấy đứa đồng ấu. Thế mà mấy năm sau, hắn cũng
không qua được cái bằng yếu lược(7).
Nhớ ngày trước khi thi, cha hắn cúng trời đất con gà trống và mấy chén chè, mấy
dĩa xôi nếp đậu đỏ để cho hắn ăn lấy lộc. Cha hắn hẹn khi hắn đậu bằng yếu lược
mang về sẽ có lễ tạ trời đất, tổ tiên với con heo ủn ỉn đang nuôi trong chuồng.
Thế mà hắn hỏng. Cả trường hơn ba chục đứa chỉ có bốn thằng hỏng, ở lại lớp ba,
trong đó hắn là một. “Cái việc đi học tưởng dễ, rứa mà cũng khó ra phết!” Hắn
cay đắng nhớ lại rồi chặc lưỡi mấy lần. Mà cũng may, nhờ có mấy năm học chữ
quốc ngữ, nay hắn mới viết được ngày kỵ của mấy nhà bà con trong cuốn vở học
trò, hắn cẩn thận cất kỹ trên bàn thờ như là một thứ lịch gia phả.
Một lần nữa, cha hắn cho hắn theo một ông thầy cúng trong làng học lấy
nghề cúng bái kiếm cơm sau này. Nghề này cũng lắm nhiêu khê. Một lần đi cúng
phải hai ba thầy, kèm theo mấy ông thổi kèn, đánh trống. Cả nhóm thầy cúng gồm
thầy chính, thầy phụ, phường bát âm cũng hơn bảy, tám người. Chán nhất là mỗi
lần đi cúng, nhiệm vụ của hắn chỉ lẽo đẽo theo thầy với cái tay nải nặng trịch
vắt vai gồm chuông mõ, trống, chiêng lỉnh kỉnh. Khi về còn thêm oản xôi, nải chuối, cái đầu heo hoặc con gà
luộc. Mà mang về hắn được ăn cho cam! Mụ vợ keo kiệt của lão thầy cất hết vào
chạn gỗ, chẳng hé ra chút nào cho lũ học việc như hắn. Theo thầy mấy năm chẳng
thăng được chức thầy phụ cúng, nghĩa là cũng chỉ mang tay nải đi về theo thầy,
rửa dọn bàn thờ cho thầy. Câu kinh, bài sớ lắp bắp mãi chẳng thuộc. “Thôi về
nhà làm ruộng còn hơn!”. Thế là hắn từ giã nghề thầy cúng, theo nghề làm ruộng
từ đó.
Mấy năm sau, cha hắn chọn cho hắn một cô thôn nữ nết na con một ông
cửu phẩm trong làng. Rứa cũng là môn đăng hộ đối! Con ông cửu lấy được con ông
bát thì còn gì bằng. Vợ hắn về nhà chồng trong niềm kiêu hãnh của họ hàng đôi
bên. Hắn cũng cảm thấy hả dạ. “Người chi mà đẹp rứa!... Lại còn giỏi giang nữa!”. Quần quật trên ruộng cạn, ruộng sâu
hết mùa này đến vụ khác mà nét trẻ trung, duyên dáng chẳng vơi chút nào. Đúng
là “gái có hơi trai như khoai có hơi cuốc”. Hai đứa con ra đời, lớn lên cũng đẹp và giỏi như mẹ nó.
Thằng Cu tuổi mới đủ giáp đã tập cày
trâu. Con Gái tuổi mười lăm đã theo mẹ đi cấy. Bây giờ hai đứa đã lớn, việc
đồng áng quần quật như trâu. Còn hắn thì mỗi ngày càng tệ hơn: Nay kỵ nhà bà
con, mai chạp họ, mốt cúng nhà xóm trên, xóm dưới… say sưa túy lúy ba mươi ngày
một tháng. Hắn tự nhận là người vai vế, được xóm làng nể trọng mới được mời mọc
khao vọng, không như mụ vợ hắn chỉ biết cắm mặt cho đất, phơi lưng cho trời.
Khi cao hứng, hắn lên nước mắng chửi vợ con không biết quí trọng hắn, chì chiết
vợ hắn là hết biết đẻ vì “chỉ hai đứa con thì làm sao rạng rỡ tông đường được”.
Chỉ cái cớ này, hắn làm tình làm tội mụ vợ khi ma men nhập hồn vào hắn.
Năm ngoái, hắn đủ bốn mươi tuổi mụ. Hắn thét vợ con làm cho hắn một
cái kỵ cha thật to, dọn hơn mười mâm, để hắn luôn dịp này tuyên bố với làng
nước, họ hàng là hắn đã lên lão. Từ đó hắn để râu, xênh xang áo dài, khăn đóng,
guốc mứt mỗi khi thù tạc lễ nghi, cúng kỵ. Vai vế của hắn với đám trẻ trong
làng cũng khác trước. Hắn tự xưng “ôn” với hết thảy lũ trẻ. Trong nhà, hắn
thoát ly hẳn công việc đồng áng, buổi sáng còn bắt vợ con cung phụng một bình
trà để hắn nhâm nhi. Hắn thường quát nạt vợ con: “Mụ mi được sang mà không biết
mừng. Chi đi nữa cũng là ôn lớn, mụ lớn
trong họ, thê tử của gia thế bát phẩm tiên chỉ
chứ chơi!”.
Trưa nay hắn ngồi chờ mãi chưa thấy người nhà thằng Mẻ đến mời. Hắn ra
bếp mở nắp om cơm, cạo ra chén mấy cục cơm nguội. Hắn ăn qua quít bữa trưa rồi
lại vào nằm trên chõng tre nhìn ra ngõ. Nắng đã nghiêng bóng xuống hàng gạch
trọọc(8) nước giọt trước hè nhà. “Rứa
là quá ngọ lâu rồi!”. Gió nồm dưới sông thổi lên đã xô đẩy mấy đọt tre cao nhất
trước xóm cong rạp, chờn vờn như múa may. Bầy chim bồ chao kêu inh tai nhức óc
ngoài hàng tre phía sau nhà. “Rứa là chiều rồi!”… “Cái nhà thằng Mẻ ni chắc
cũng quên mình rồi?”. Hắn lẩm bẩm mấy lần rồi đứng lên. “Đồ không biết điều! Đồ
chẳng ra chi! Tau là bác của mi mà mi
dám quên hả?”…,“Rõ là cái thứ keo kiệt!”. Hắn nhìn ra ngõ rồi lại nhìn vào nhà.
“Nó không mời mà tới tay không răng được!... Cái thằng thiệt tệ!... Nó mời mình
một tiếng thì có hay hơn không.” Hắn
nhìn quanh, trong nhà không có gì. Hắn ra vườn. Cam
quít thì chưa đến mùa, có buồng chuối già thì sao được, còn xanh phải giú mấy
ngày mới chín. Thôi mấy quả khế chua này là
thứ cứu tinh! Hắn lấy cây sào dài, khệ nệ dựng cái thang tre vào gốc
khế, khoèo chọc một hồi, khế rụng đầy gốc. Hắn chọn những trái chín mẩy, đều
tắp làm một xâu dây lạt, hí hửng đi dự đám kỵ nhà thằng Mẻ.
Vào đến sân, cái miệng hắn đã toe toe :
- Cái thằng Mẻ ni mi định quên bác mi hả? Chi đi nữa, ngày kỵ chú, mi
phải báo tau đến thắp hương cho ông mi chứ. Tau còn gọi ông mi bằng chú mà mi
quên thật hay cố tình quên?
Hắn xăm xăm vào nhà, ông Mẻ vội vàng đỡ lấy xâu khế của hắn đưa xuống
bếp. Hắn cự ngay:
- Tau đem xâu khế đến thắp hương cho chú tau thì mi phải để trên bàn
cúng cho phải lễ. Răng mi đưa xuống bếp?
Hắn giành lại xâu khế, đặt trịnh trọng trên quả bồng có sẵn nải chuối
cau chín vàng, đốt nhang khấn vái, trông thật chững chạc.
Lễ lạt mọi thứ đã xong, khách mời đông đủ, ông Mẻ rót đủ ba tuần rượu
cúng, chuyển qua cúng nước đã hai lần chiết trà. Hắn thập thò chỉ chờ một lần
chiết trà nữa là xong lễ cúng cơm chiều. Hắn chễm chệ trên chiếc phản gỗ gian
giữa, đàm đạo gia sự với những bậc cao niên cùng vai vế, một phần là để xác nhận
với mọi người về thứ bậc trong gia tộc, phần nữa là chọn giữ chỗ trong bữa ăn
kỵ sắp dọn ra. Sáu người trong mâm thì hắn là người trẻ nhất nhưng lại ngồi ở
chỗ thứ hai bên tả. Như thế, nếu theo thứ bậc thì hắn là vai vế thứ ba trong mâm cỗ. Râu hắn
chỉ mới một chòm dài chừng lóng tay, quặp ngược vào cổ, hắn đưa tay lên vuốt
mãi nhưng vẫn không thẳng ra được. Tóc thì chưa có sợi bạc.
Hắn nhìn một lượt mâm cỗ mới
được đặt xuống phản. “Cũng vậy cả thôi!”.
Hắn liếc qua mấy dĩa hàng mộc, mấy chén thịt kho, tô hầm, tô canh bún… Hấp
dẫn hắn nhất là dĩa chả lụa, dĩa cuốn ram, mỗi dĩa chỉ dọn 6 miếng đủ cho số
thực khách trong mâm. Hai đầu mâm cỗ là hai dĩa cơm, mấy dĩa bánh, chén xôi
đường… Thứ chén dĩa nào cũng nho nhỏ, đặt sát nhau, màu sắc sắp xếp hài hòa trông
vào đã thấy thích mắt. Hắn chặn nước bọt ứa ra trong miệng, chặc lưỡi nghĩ
thầm: “Cái nhà thằng Mẻ ni, cha nó mới vào làm tay sai vặt trong đội Lý
Thiện(9) mà mâm cơm cúng cũng na ná mâm cúng
trong họ nhà vua. Nhiều món, món nào cũng tí tí một ít, dọn chật chiếc
chiếu, chiếm cả chỗ ngồi thực khách.”…
Sáu cái chén đất mắt trâu và chai rượu được ông Mẻ trịnh trọng mang ra, đặt
xuống chiếu, mời thực khách khai tiệc.
Một màn ăn uống im ắng bắt đầu, bù lại cho không khí rôm rả trò chuyện trước
đây.
*
Chiều nay thằng Cu, con Gái và
vợ hắn từ đồng về nhà. Trời tối đen. Mụ lọ mọ vơ quanh cái kệ bếp tìm
cây đèn chai, kẹt bích kê(10) mấy lần
mới có ngọn lửa châm đèn. Nghe tiếng người, con heo trong chuồng kêu eng éc,
nhảy chồm lên cửa chuồng đòi ăn. Mụ vào nhà, không thấy hắn, quýnh lên: “Cha
tụi bây mô rồi?”. Mụ ngó lên cây sào tre bên tấm phên liếp, không thấy cái
dù đen, khăn đóng và áo dài. “Rứa là đi
ăn kỵ nhà mô rồi!”. Mụ sai thằng Cu lật cuốn vở của hắn để trên bàn thờ, xem
hôm nay kỵ nhà ai? “My tới dắt cha mi về, để ông tộng rượu vô thì cũng như bữa
trước”. Con Gái đang loay hoay vo gạo nấu cơm, cũng góp vào: “Kệ cha! Kéo ông
về ông lại chửi cho!”. Thằng Cu chần chừ mãi không chịu đi, mụ lại thét: “Bây
muốn giết cha bây hả?”. Ngay lúc ấy thì từ đầu xóm, tiếng hắn đã oang oang vọng
vào. Mụ lại tru lên: “Ơi!... Đồ già dịch!”. Nhưng mụ lại hối thúc thằng Cu: “Mi
còn chưa chịu ra đỡ cha mi vô hả!”.
Vào đến nhà, hắn khua chân múa tay:
- Cái quân không biết chi! Kỵ ông nội nó là chú của tau mà nó không
tới mời một tiếng… Mà tưởng rứa là xong hà? Xong răng được! Thằng cha nó không
có cha tau đem vô sai vặt trong đội Lý Thiện thì có cơm dư, cá thừa đem về nuôi
mấy anh em nó lớn như ri chắc?... Đồ
quên ơn! Đồ không biết chi!... Rứa mà nó cũng còn là quân biết điều!... Nó mời
tau ngồi phản giữa thì cũng còn biết tau là bác nó… Mà nó chẳng biết cái cóc
khô chi cả!… Tau đưa xâu khế vô, nó lại sai con nó mang xuống bếp!... Xuống bếp
răng được? Của tau đem tới cúng cho chú tau
mà!… Một xâu khế cũng là lễ!... Mà lại là khế chua! Ha…Ha…Ha!… Hắn có
giàu, có của thì cũng là thằng Mẻ! Nó có hơn
tau mấy tuổi thì cũng là cháu tau. “Bò ngã gặp khi khế rụng” quí giá chi
mô!..Ha…Ha…Ha….
Vợ hắn đã chán nghe những lời đại loại như vậy mỗi lần hắn đi ăn kỵ
về, cũng chẳng bận tâm làm gì. Cứ để hắn nói, nói cho đến khi không còn nói
được nữa thì thôi. Mụ nhặt cái dù có quấn cái áo dài đen và cái khăn đóng treo
lên sào tre. Nhìn xuống chân hắn chỉ có
một chiếc guốc, mụ gào lên:
- Mô một chiếc guốc rồi? Cu! Mi ra
tìm guốc cha mi rớt chỗ mô? Đồ ăn hại! Đi guốc rớt ra chân cũng không
biết.
Mụ xốc hắn ngồi xuống chiếc chõng tre, miệng không ngớt tru tréo:
- Tộng vô cho lắm! Tộng hết nhà hết ruộng cũng chưa bưa cái miệng.
Tộng mãi của người ta rồi lấy chi mà trả nợ miệng. Khổ cái thân tui!...
- Nợ miệng!... Cả làng, cả họ phải trả nợ miệng cho tau… Tau thì trả
cho ai?... Cái thằng Khá… cậu của thằng Mẻ, mà nó sắp ngồi trước tau… Ngồi đầu
phía hữu!... Thằng Khá thợ cày… ăn cơm nhà cha tau mòn răng… rứa mà dám gọi tau
là chú… Chú là chú em…Đồ xấc!...Quân láo!... Tau nhỏ tuổi hơn nó nhưng nó làm
thuê cho nhà tau… Mụ có biết thằng Khá… nó xỏ tau ra răng không?... Nó dám kêu
tau là chú râu quặp… Nó râu quặp thì có!... Râu tau chưa mọc hết,… vài năm nữa
thì cả làng này thấy râu tau đẹp phải biết!... Thằng Mẻ đưa chai rượu cho nó,…
nó giữ riết, không chuyển cho ai… “Ừa!…Thượng điền tích thủy, hạ điền khan”…
Khi nó chuyền xuống dưới thì đã hết hơn nửa… Nó cũng là thằng tham ăn… Thằng Mẻ
giết heo làm chả thiệt ngon!… Kể ra nó cũng biết điều!...Ờ!... Dĩa chả nó đặt
ngay trước mặt tau… Tau mới ăn hết miếng thứ hai,… động đũa định gắp thêm thì
thằng Khá châm đũa vào cùng mấy thằng kia gắp hết dĩa chả… Đồ quân tham
ăn!…Quân không biết nhường nhịn!...
Giọng hắn mỗi lúc càng lè nhè. Vợ hắn xô hắn nằm xuống mấy lần, hắn
lại mấy lần ngồi lên. Hắn nói, nói mãi. Thằng Cu sau khi tìm thấy chiếc guốc
mứt của cha, đem vào kê làm đòn ngồi chẻ lạt, chuẩn bị sáng mai, nhổ mạ cấy
ruộng. Con Gái thì loay hoay với nồi cám heo trên bếp. Bữa ăn vợ hắn đã dọn ra
trên cái chõng kê ở nhà sau, chưa có ai ngồi vào. Trong nhà hắn cứ lè nhè hết
chuyện nọ xọ chuyện kia, chê thằng này tệ, khen ông kia biết điều, chốc chốc
hắn ngáp dài.
Khi không còn nghe tiếng hắn lải nhải, mấy mẹ con mụ ngồi vào chiếu
cơm quây quá cho xong bữa tối. Trong chuồng, con heo sau khi ăn no đã hết kêu. Đang
ăn, thằng Cu nghe tiếng huýt huýt ngoài xóm, đã bỏ đũa, đi theo bạn bè. Con Gái
xong việc bếp núc, đã lên giường. Mụ sắp dọn hết đồ đạc chuẩn bị cho buổi nhổ
mạ và cấy ruộng ngày mai vào chiếc ky (1b),
bưng ra để ngoài sân. Mụ vào nhà, đá nhẹ hai chiếc guốc gỗ của hắn vào chân
chõng tre, đẩy hắn nằm lại ngay ngắn trên chõng. Mụ trân trân nhìn hắn một lát
rồi quay ra bậc cửa ngồi nhìn đêm đen. Có thể đây là phút nghỉ ngơi đầu tiên
của mụ trong ngày. Không gian về đêm thật yên lặng. Tiếng ngáy của hắn đều đều,
có khi đàm chận luồng hơi sùng sục, rè rè. Không biết mụ ngồi đến bao giờ.
Thỉnh thoảng mụ có một tiếng thở ra nhè nhẹ.
Ugno.Vn
Chú thích:
(1)Ky :- Bôi vào, trét vào (1a)
- Đồ dùng đan bằng tre như rổ (1b)
(2)Trôốc: Cái đầu
(3)Chự:
Giữ
(4)Quân điền: Ruộng công của làng chia cho
dân canh tác
(5)Ông Bát, Ông Cửu: Hệ thống quan lại, lính
tráng triều Nguyễn có
9 bậc. Tuần tự từ Cửu phẩm, Bát phẩm, Thất
phẩm... Người Huế gọi tên người có chức luôn kèm theo chức vụ (Cửu Lạp, Bát
Hồi, Thất Thau…)
(6)Tiên chỉ: Người về hưu có chức vụ cao
nhất hoặc lớn tuổi nhất trong
Hội đồng kỳ mục của làng.
(7)Yếu lược: Cấp sơ học(Élémentaire, từ lớp
1-3)
(8)Trọọc: Đường nước mưa từ mái nhà giọt
xuống trước hiên nhà
(9)Lý Thiện: Đội nấu cỗ bàn tế lễ, phục vụ
ăn uống trong Hoàng cung
(10)Bích kê: Cái bật lửa (Briquet)