“SAY
ĐI EM”, MỘT BÀI THƠ “TỚI BẾN”
Phạm Đức Nhì
Tôi không nhớ đã “quen
biết” bài thơ Say Đi Em của Vũ Hoàng Chương ở đâu và khi nào. Nhưng trong
danh sách những bài thơ hay để giới thiệu với độc giả thì nó đứng đầu. Đọc để cảm
thì sao cũng được – đó là “cái riêng”
của mỗi người khi đọc thơ, những người khác ít ai dám xía vào. Nhưng bình thơ thì
phải có khen chê - phải có một quan niệm về thơ để làm chỗ dựa cho sự khen chê
đó. Mỗi lời khen, tiếng chê - ngoại trừ cái hay, dở của ngôn ngữ thơ - đều phải
có lập luận để giải thích, và nếu bị phản bác, để bảo vệ nó.
Say Đi Em là bài thơ khó bình. Tôi đã “ngâm” nó trong kho từ vài năm trước. Mỗi
lần mở ra đọc lại thấy ơn ớn. Chỗ mình muốn khen hết lời thì lại có một cây đại
thụ về phê bình văn học (Vũ Ngọc Phan) (1) dè bỉu, chê bai. Một số điểm hay
khác của bài thơ thì lại … quá lạ, không biết mình nêu lên có gây sóng gió, bão
táp gì không?
Nói vậy để độc giả thông cảm chứ tôi đã ăn ngủ với Say Đi Em cả mấy tháng nay rồi. Đã thuộc,
đã nghiền ngẫm từng chữ nên khi viết lời bình cũng có đôi chút tự tin. Tuy
nhiên, cái hay, cái đẹp (và cả cái dở) của thơ thì mênh mông như biển cả. Nếu
bài viết này có gì sai sót, rất vui vẻ đón nhận mọi phê bình, góp ý.
SAY ĐI EM
1/
Khúc
nhạc hồng êm ái
Điệu
kèn biếc quay cuồng
Một
trời phấn hương
Đôi
người gió sương
Đầu
xanh lận đận, cùng nhớ thương, càng xót thương...
Hoa
xưa tươi, trăng xưa ngọt, gối xưa kề, tình nay sao héo?
Hồn
ngả lâu rồi nhưng chân còn dẻo
Lòng
trót nghiêng mà bước vẫn du dương
Lòng
nghiêng tràn hết yêu thương
Bước
chân còn nhịp Nghê Thường lẳng lơ
2/
Ánh
đèn tha thướt
Lưng
mềm não nuột dáng tơ
Hàng
chân lả lướt
Đê
mê hồn gửi cánh tay hờ
Âm
ba gờn gợn nhỏ
Ánh
sáng phai phai dần...
Bốn
tường nghiêng điên đảo bóng giai nhân
Lui
đôi vai, tiến đôi chân
Riết
đôi tay, ngả đôi thân
Sàn
gỗ trơn chập chờn như biển gió
Không
biết nữa màu xanh hay sắc đỏ
Hãy
thêm say, còn đó rượu chờ ta
Cổ
chưa khô đầu chưa nặng mắt chưa hoa
Tay
mềm mại bước còn chưa chuếnh choáng
Chưa
cuối xứ Mê Ly chưa cùng trời Phóng Đãng
Còn
chưa say hồn khát vẫn thèm men
3/
Say
đi em! Say đi em!
Say
cho lơi lả ánh đèn
Cho
cung bậc ngả nghiêng, điên rồ xác thịt!
Rượu,
rượu nữa! Và quên, quên hết!
Ta
quá say rồi
Sắc
ngả màu trôi...
Gian
phòng không đứng vững
Có
ai ghì hư ảnh sát kề môi
Chân
rã rời
Quay
cuồng chi được nữa
Gối
mỏi gần rơi!
Trong
men cháy giác quan vừa bén lửa
Say
không còn biết chi đời
4/
Nhưng
em ơi
Đất
trời nghiêng ngửa
Mà
trước mắt Thành Sầu chưa sụp đổ
Đất
trời nghiêng ngửa
Thành
Sầu không sụp đổ, em ơi!
Vũ Hoàng Chương
“Em” Trong Bài Thơ Là Ai?
Theo tôi, câu hỏi đó đã được trả lời một cách kín đáo ở
đoạn đầu bài thơ.
Khúc
nhạc hồng êm ái
Điệu
kèn biếc quay cuồng
Một
trời phấn hương
Tác giả nói đến vũ trường, nhạc dập dìu quanh các nàng
ca ve son phấn.
Đôi
người gió sương
Đầu
xanh lận đận, cùng nhớ thương, càng xót thương
Hoa
xưa tươi, trăng xưa đẹp, gối xưa kề, tình nay sao héo?
Gặp người quen, cũng là dân “sương gió”; nàng là gái nhảy, chàng là khách làng chơi mê khiêu
vũ, xưa đã có một thời mặn nồng, sau đó vì “đầu
xanh lận đận” nên nay tình đã héo. Cụm từ “gối xưa kề” đã bóng gió nói đến thời mặn nồng đó.
Hồn
ngả lâu rồi nhưng chân còn dẻo
Lòng
trót nghiêng mà bước vẫn du dương
Nay tình không còn mặn nồng nữa nhưng vẫn còn khoái
món khiêu vũ. Cụm từ “Lòng trót nghiêng”
hơi trừu tượng; vừa muốn giải thích lại vừa muốn đưa vào 2 câu lục bát cho ngọt
dòng thơ nên ông viết tiếp:
Lòng
nghiêng tràn hết yêu thương
Bước
chân còn nhịp Nghê Thường lẳng lơ
Lòng đã hết thương nhưng chân còn mê nhảy.
Tóm lại, đoạn đầu có thể hiểu như sau; Vào vũ trường
nhảy nhót, uống rượu giải sầu, lại gặp bạn “giang
hồ” cũ. Dù tình đã hết cũng xáp lại để có đôi có cặp, để được đối ẩm, khiêu
vũ với người “hợp gu”, “hợp rơ”.
Thành
Sầu Của Vũ Hoàng Chương
Tập thơ Say của Vũ Hoàng Chương xuất bản năm 1940 – có
nghĩa là bài thơ Say Đi Em được viết trước đó.
Nho học đã lụi tàn. Khoa thi Hương cuối cùng là khoa Mậu
Ngọ (1918), tổ chức tại trường Thừa Thiên. Sau khoa thi Hương này, ngày
28/12/1918, vua Khải Định ra chỉ dụ bãi bỏ khoa cử ở Việt Nam. Khoa thi Hội và
thi Đình cuối cùng được tổ chức năm 1919. Những người thi đỗ có bằng nhưng
không được bổ nhiệm chức vụ gì. (2)
Cha mẹ VHC, cũng như rất nhiều bậc cha mẹ thuộc hàng
quan lại, khá giả thời bấy giờ, ở vào thế tấn thối lưỡng nan. Một là, giữ lấy
chút tiết tháo kiểu quân tử Tàu, thà để con lông bông chịu dốt chứ không thèm hợp
tác với ngoại bang. Hai là, cho con theo Tây học để mở mang kiến thức, có cơ hội
thăng tiến trong xã hội mới. Họ, hầu hết, đã chọn con đường thứ hai. Vũ Hoàng
Chương nhờ thế, đỗ Tú Tài Pháp ban toán năm 21 tuổi (1937).
Năm 1938 ông vào Trường Luật nhưng chỉ được một năm
thì bỏ, đi làm Phó Kiểm Soát Sở Hỏa Xa Đông Dương, phụ trách đoạn đường Vinh –
Na Sầm (Wikipedia). (3)
“Vào
năm 1935, Hà Nội tuy sống dưới chế độ bảo hộ của thực dân Pháp nhưng có một bộ
mặt rất thanh bình, vui vẻ, trẻ trung. Nhà cầm quyền đang cố tình dung túng các
cuộc ăn chơi phóng túng để người ta quên đi biến cố đàn áp tàn bạo vừa qua (Năm
1930, Nguyễn Thái Học và mười hai liệt sĩ VN Quốc Dân Đảng khác phải lên đoạn đầu
đài ở Yên Bái, sau đó là chiến dịch lùng sục bắt bớ ở nhiều nơi), đồng thời để
ru ngủ thanh niên nên các trà đình, tửu điếm, các tiệm nhẩy đầm, các nhà hát ả
đào (còn gọi là hát cô đầu) và các tiệm hút thuốc phiện mọc lên nhan nhản. Người
ta đua nhau ăn diện, nhiều cậu công tử Hà Thành diện đúng mốt Paris, tay sách
can đi bên cạnh các cô gái tân thời, phấp phới áo dài Lemur Nguyễn Cát Tường.
(4)
VHC ngoài việc bắt buộc phải theo Tây học để tiến
thân, còn cắn phải miếng mồi “ru ngủ”
của người Pháp. Ông cũng lao vào những thú vui trác táng - rượu, thuốc phiện,
nhảy đầm và cả gái nữa. Về điểm này, Trong Thi Nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã có
một đoạn khá đầy đủ:
Người
say đủ thứ: Say rượu, say đàn, say ca, say tình đong đưa. Người lại còn
"hơn" cổ nhân những thứ say mới nhập cảng: Say thuốc phiện, say nhảy
đầm. Bấy nhiêu say sưa đều nuôi bằng một say sưa to hơn mọi say sưa khác: Say
thơ.
(3)
Như vậy, “thành
sầu” của VHC là nỗi sầu đất nước bị ngoại bang đô hộ, dân tộc bị chúng làm
tha hóa, băng hoại bằng đủ mọi âm mưu thâm độc. Trớ trêu thay, chính ông lại
góp tay, giúp sức cho bộ máy cai trị ấy, chính ông lại lậm vào những cuộc chơi
trác táng do chúng đặt ra, không những tự làm hỏng mình mà còn làm gương xấu
cho lớp trẻ, rường cột của tương lai dân tộc. Ông cảm thấy tội lỗi, tủi nhục, uất
ức và chất ngất buồn sầu. Là người có liêm sỉ, ông đã can đảm nói lên sự thật:
Lũ
chúng ta lạc loài dăm bảy đứa
Bị
quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh
Bể
vô tận xá gì phương hướng nữa
Thuyền
ơi thuyền, theo gió hãy lênh đênh.
(Phương Xa)
Và thế là năm 1941, ông bỏ Sở Hỏa Xa đi học Cử nhân
toán tại Hà Nội, rồi lại bỏ dở để đi dạy (tư) ở Hải Phòng (3).
Nỗi tủi nhục buồn sầu đó bắt rễ, ăn sâu rồi cao lớn
như một bức tường thành sừng sững trong tâm hồn nhà thơ – đã trở thành điểm mấu
chốt trong tứ thơ của thi phẩm Say Đi Em.
“Thành
Sầu”
Trong “Say Đi Em” Của Vũ Hoàng Chương
Có Nỗi “Sầu Tình” Không?
Cha VHC là Vũ Thiện Thuật, một nhà nho bảo thủ, nghiêm
khắc, làm Tri Huyện, muốn sau khi VHC học xong sẽ hỏi con gái một quan Bố
Chánh, bạn thân của mình, cho ông. Ông không thích kiểu hôn nhân áp đặt nên
không đồng ý và đã làm phật lòng cha. Vì thế khi ông yêu cầu đi hỏi Tố Uyển -
người yêu của mình - về làm dâu trong gia đình thì cha ông đã từ chối thẳng thừng.
(4)
Khoảng tháng 3 năm 1941 song thân của Tố Uyển mới nhận
lễ vật dạm ngõ của nhà trai (anh Cử Cương) (4) và mãi đến ngày 12 tháng 6 năm
Tân Tỵ (khoảng tháng 7 năm 1941) nàng mới lên xe hoa về nhà chồng. (6) Sau đây
là một đoạn trong bài Mười Hai Tháng Sáu
ông viết về mối tình tan vỡ của mình:
Tháng
Sáu mười hai, từ đấy nhé
Chung
đôi, từ đấy nhé lìa đôi.
Em
xa lạ quá đâu còn phải
Tố
của Hoàng xưa, Tố của Tôi.
Nỗi sầu thất tình của VHC xuất hiện sau năm tập thơ
Say ra đời (1940) nên có thể nói chắc rằng nó không ăn nhập gì đến “thành sầu” của thi sĩ trong bài thơ Say Đi Em.
Tứ
Thơ
Trong một đêm đi nhảy ở vũ trường, gặp “bạn nhảy cũ”, tác giả mời nàng đối ẩm,
có ý muốn mượn rượu để giải sầu, nhưng uống đến mức “say không còn biết chi đời” mà nỗi sầu vẫn sừng sững như một bức
tường thành, không sụp đổ.
Bố
Cục Và Dàn Ý
Bài thơ có thể chia làm 4 đoạn:
1/ Đoạn mở đầu 10 câu, thiết lập khung cảnh của bài
thơ: Đến vũ trường, gặp người tình cũ đang là ca ve ở đấy. Tình đã héo nhưng
chân còn “ngứa ngáy” nên xáp lại.
2/ Đoạn hai 16 câu: Cảm giác “Đê mê hồn gửi cánh tay hờ”
khi đang dìu em trên sàn nhảy lúc rượu đã ngà ngà.
3/ Đoạn ba 13 câu: Mời em cùng uống cho đến khi “say
không còn biết chi đời”.
4/ Đoạn kết 5 câu: Nỗi sầu vẫn còn đó - sừng sững như
một bức tường thành, không sụp đổ.
Vũ Hoàng Chương viết Say Đi Em không theo lối kể chuyện lớp lang theo trình tự thời
gian. Trong một lúc tĩnh lặng nào đó, ông hồi tưởng rồi trải lên trang giấy những
hình ảnh, cảm giác, tâm trạng lưu lại trong ông ấn tượng mạnh mẽ nhất, sâu đậm
nhất của một đêm đi nhảy, uống rượu ở vũ trường.
Vì thế, ở đoạn 2, có lẽ ông nói đến điệu nhảy sau
cùng, nhịp điệu nhanh, tâm trạng phấn khích, hào hứng, có người còn liên tưởng
đến những bước “fantaisie” của vũ điệu
Tango (cũng điệu Tango 4 phách, chế ra những bước nhảy mới lạ - gọi tắt là nhảy
“phăng”). Trước khi vào đoạn 3 ông đã mấp mé ở ranh giới
giữa “ngà ngà” và thật say. Cho nên
nâng ly mời cô bạn nhảy “Say đi em! Say
đi em!” thì chắc chỉ được vài ly là ông đã “Say không còn biết chi đời”.
Nhưng dù say đến thế nhưng nỗi sầu quá sâu đậm, vẫn
như một bức tường thành, không sụp đổ.
Vần
Và Dòng Chảy Của Tứ Thơ
Về hình thức, tác giả sử dụng thể Thơ Mới, nhưng không
phải lối thơ Trường Thiên (mỗi đoạn 4 câu) mà là thể thơ nhất khí liền mạch – một
hơi từ câu đầu đến câu cuối. Nhưng cũng không phải như Nhớ Rừng của Thế Lữ - cứ
8 chữ một câu với vần liên tiếp, đọc lên nghe rất ngán. “Say Đi Em” rất phóng khoáng. Có đôi chỗ ngừng là do tác giả muốn
chuyển ý, đổi vần chứ không phải do đòi hỏi của luật thơ. Ông cũng tạo ra một số
thay đổi, vừa tránh được trói buộc của luật tắc, vừa có thể nhấn mạnh điểm
chính của tứ thơ:
1/ Số câu trong bài không giới hạn, viết hết ý, hết hứng
thì thôi.
2/ Số chữ trong câu thay đổi (với biên độ rộng) một
cách tùy tiện, tùy hứng. Câu ngắn nhất 3 chữ (Chân rã rời), câu dài nhất 13 chữ
(Hoa xưa tươi, trăng xưa đẹp, gối xưa kề, tình nay sao héo). Nhờ thế, nhịp điệu
thơ thay đổi liên tục.
3/ Vần rất đậm, nhưng không có hội chứng nhàm chán vần,
đọc lên không thấy ngán. Câu sau nối tiếp câu trước, tứ thơ và cảm xúc cứ thế
tuôn chảy thành dòng. Lý do: Nhịp điệu thay đổi cộng với sự giúp sức của mấy đoạn
gieo vần gián cách:
Ánh
đèn tha thướt
Lưng
mềm não nuột dáng tơ
Hàng
chân lả lướt
Đê
mê hồn gửi cánh tay hờ
Và:
Chân
rã rời
Quay
cuồng chi được nữa
Gối
mỏi gần rơi!
Trong
men cháy giác quan vừa bén lửa
Say
không còn biết chi đời
Thêm vào đó, để thay đổi không khí, còn có hai câu thơ
lục bát mượt mà ở đoạn đầu và sự phối hợp một cách tài tình điệp ngữ, điệp vận
với vần ôm ở đoạn kết.
Ở thời điểm trước năm 1940 mà đã sử dụng vần phóng
khoáng và điệu nghệ như vậy thì thật đáng nể phục.
Cũng xin nói đến một điểm nổi bật về kỹ thuật thơ của
VHC là sự chuyển đoạn ăn khớp, khéo léo - từ ý này bước qua ý khác rất ngọt.
a/ Đoạn 1
qua đoạn 2
Từ:
Lòng
nghiêng tràn hết yêu thương
Bước
chân còn nhịp Nghê Thường lẳng lơ.
qua:
Ánh
đèn tha thướt
Lưng
mềm não nuột dáng tơ
Hàng
chân lả lướt
Đê
mê hồn gửi cánh tay hờ.
Vừa nói “hết yêu
nhưng còn mê nhảy” đã chuyển qua cảnh ôm em trên sàn nhảy. Sự kết nối thật
tương hợp.
b/ Đoạn 2
qua đoạn 3
Từ:
Còn
chưa say, hồn khát vẫn thèm men
qua:
Say
đi em! Say đi em!
Đều nói đến
rượu, kết nối hợp lý.
c/ Đoạn 3
qua đoạn 4
Từ:
Say
không còn biết chi đời
qua:
Nhưng
em ơi
Đất
trời nghiêng ngửa
Vừa thú nhận “Say
không còn biết chi đời” đã thấy “Đất
trời nghiêng ngửa”. Mối liên hệ nhân quả, không một kẽ hở.
Nhờ sự chuyển đoạn khéo léo như vậy nên tứ thơ thông
thoáng, bài thơ nhất khí liền mạch, cảm xúc lớn mạnh nhanh chóng.
Điệp
Vận Ở Phần Sau Đoạn 3 - Nói Về Cơn Say
Ta
quá say rồi
Sắc
ngả màu trôi...
Gian
phòng không đứng vững
Có
ai ghì hư ảnh sát kề môi
Chân
rã rời
Quay
cuồng chi được nữa
Gối
mỏi gần rơi!
Trong
men cháy giác quan vừa bén lửa
Say
không còn biết chi đời
Có 9 câu thơ ngắn mà đến 6 lần vần ôi (hoặc ơi) - điệp
vận đến mức thoạt nhìn qua là đã mất cảm tình. Nhưng thật lạ! Đọc lên không những
không thấy ngán mà còn thấy hồn mình như bị dính chặt vào ý thơ - cơn say thực
sự, “say không còn biết chi đời” - của
tác giả. Với cơn say ở đỉnh điểm như vậy, không còn chỗ cho lý trí và con đẻ của
nó là sự dối trá, bám víu. Năm câu sau của đoạn kết đúng là tiếng lòng chân thật.
Điệp vận kiểu ấy, theo tôi, nếu là người làm thơ tỉnh
táo, chắc là sẽ tránh xa. VHC, trong lúc lạc lần trí, đã hiên ngang bước vào “bãi mìn” ấy, nhưng nhờ thế, đã tạo được
một đoạn thơ độc đáo, có giá trị như một con dấu chứng nhận sự chân thật cho đoạn
kết, góp phần hết sức quan trọng vào sự thành công của thi phẩm Say Đi Em.
Đoạn
Kết Tuyệt Vời
Sau khi đã uống đến “Say không còn biết chi đời” thi sĩ đã cho tuôn ra đoạn thơ:
Nhưng
em ơi
Đất
trời nghiêng ngửa
Mà
trước mắt Thành Sầu chưa sụp đổ
Đất
trời nghiêng ngửa
Thành
Sầu không sụp đổ, em ơi!
Đoạn thơ hay cả về ngôn ngữ, thi ảnh, cấu trúc, âm điệu
và nhịp điệu. Đặc biệt điệp ngữ ở hai cụm từ “em ơi” và “đất trời nghiêng
ngửa” cho độc giả như tôi cái cảm giác đang nghe CODA của một bản nhạc, được
viết rất khéo bởi một nhạc sĩ tài danh. Thành sầu của ông như đang chịu một trận
động đất mạnh đến mức “đất trời nghiêng
ngửa” mà vẫn “chưa sụp đổ” và đã
chuyển từ chỗ “chưa sụp đổ” – còn chờ
đợi, còn một chút hy vọng mong manh - đến chỗ “không sụp đổ” – nghĩa là đã hoàn toàn tuyệt vọng. Nỗi buồn sầu đã
dâng lên đến đỉnh điểm. Chữ “không” ở
câu cuối “đắt” như kim cương và ẩn dụ
của cả đoạn thơ thật tuyệt vời.
Cảm
Xúc Dâng Tràn - Hồn Thơ Lai Láng
Cảm xúc tầng 1: Theo tôi, VHC thành công trong việc
trao tặng độc giả những cảm giác khoái trá ở tầng 1. Ngôn ngữ thơ của ông chắt
lọc, trau chuốt, hình tượng đẹp một cách lộng lẫy, kiêu sa, câu thơ mạch lạc,
trong sáng. Nói theo ngôn ngữ bóng đá, kỹ thuật cá nhân của các cầu thủ trong Say Đi Em điêu luyện, thuộc đẳng cấp
cao, nhìn qua là thấy có cảm tình và nể phục.
Cảm xúc tầng 2:
Trong Say Đi Em thế trận chữ
nghĩa được dàn trải hợp lý, tạo hiệu quả tối đa cho việc chuyển tải tứ thơ. Vần
và nhịp điệu giúp dòng chảy của tứ thơ thông thoáng. Độc giả như được xem một
trận bóng đá mà đội phe mình công thủ, lên xuống nhịp nhàng, đấu pháp toàn đội
kín kẽ, hoàn hảo.
Cảm xúc tầng 3: Là thứ cảm xúc cao cấp nhất trong thơ
- nếu đến mức dâng tràn, ta có hồn thơ. Để có hồn thơ bài thơ cần mấy điều kiện
sau đây:
1/ Tứ thơ không phân mảnh đứt đoạn mà phải được dàn trải
sao cho ý này nối tiếp ý kia, không ngừng nghỉ.
2/ Thể thơ phải như con kênh thông thoáng để khi câu
chữ từ tứ thơ tuôn xuống có thể thành dòng thơ. Trong Say Đi Em, chỉ mới bước vào đầu đoạn 2 là men rượu đã ngấm, cảm xúc
quyện lấy tứ thơ để cùng chảy một dòng.
3/ Thi sĩ phải nổi điên để cảm xúc sôi lên phủ mờ lý
trí. Trường hợp Say Đi Em, bắt đầu vào đoạn 3 là lý trí đã trốn chạy khá xa, và
đến giữa đoạn 3 thì hoàn toàn mất dạng. Cứ thế cho đến lúc thi sĩ “Say không còn biết chi đời”
4/ Phải kết hợp để khi cảm xúc lên đến đỉnh điểm (cao
trào) thì cũng là lúc thi sĩ tuôn ra điểm cốt yếu của tứ thơ. Đó sẽ là tiếng
lòng chân thật của ngài. Ở Say Đi Em
là đoạn 3 và đoạn 4.
Nếu thi sĩ cao hứng đến mức nổi điên mà điều kiện 1 và
2 không được thỏa mãn thì dù không có hồn thơ bài thơ cũng có chút ít cảm xúc tầng
3. Đây là thứ cảm xúc cho độc giả cảm giác khoan khoái đặc biệt hơn nhiều so với
cảm xúc tầng 1 và 2.
Say
Đi Em không những có đủ 4 điều kiện trên mà điều kiện nào
cũng đạt đến mức hoàn hảo, hơn nữa, dòng chảy của tứ thơ nhanh và mạnh, nên có
thể nói mà không sợ quá lời: Bài thơ có cảm xúc dâng tràn, hồn thơ lai láng.
So sánh với Hồ Trường của Nguyễn Bá Trác - một bài thơ
được nhiều người khen là “hào khí ngất trời”
- cảm xúc của Say Đi Em mạnh hơn nhiều
Những
Nét Chính Trong Nghệ Thuật Thơ Của “Say Đi Em”
Say
Đi Em là bài thơ có độ dài bậc trung – 44 câu, 283 chữ, mỗi
câu trung bình có 6,4 chữ. Nhưng chỉ với số chữ, số câu như thế tác giả đã đưa
vào khá nhiều tuyệt chiêu thi ca. Để độc giả không bị phân tâm hoặc sa đà vào
những tiểu tiết có tính “kỹ thuật cá
nhân” (câu chữ) ở đây tôi chỉ nhắc đến tài thơ của thi sĩ về mặt thế trận
và cảm xúc. “Kỹ thuật cá nhân” sẽ được
ghi lại ở “Phần Đọc Thêm”
ƯU
ĐIỂM:
1/ Vẫn còn vóc dáng, âm điệu của Thơ Mới nhưng có nhiều
phá cách độc đáo.
2/ Tứ thơ đáng chú ý: Nỗi lòng phức tạp của tác giả –
mặc cảm tội lỗi nhưng đáng thương, đáng kính trọng, đặc biệt là sự can đảm, dám
nói lên sự thật.
3/ Bài thơ có tính nhạc cao, nhất là nhịp điệu. Thơ,
nhạc, họa hòa quyện lấy nhau thành một khung cảnh vừa sống động, vừa lung linh
mờ ảo.
4/ Sử dụng điệp vận nặng tay ở phần sau đọan 3 - cột
chặt hồn người đọc vào ý thơ, vào dòng cảm xúc, làm nổi bật ý nghĩa của đoạn
thơ.
“Ta
quá say rồi … Say không còn biết chi đời”.
5/ Đoạn kết hoàn hảo, để lại ấn tượng sâu sắc.
6/ Vần rất đậm nhưng không có hội chứng nhàm chán vần,
đọc lên nghe không ngán, không nhàm, không chán. Không bị đắp mô nên tứ thơ
thông thoáng, chảy thành dòng; cảm xúc cũng chảy thành dòng, đưa tứ thơ lên đỉnh
điểm, tạo được cao trào.
7/ Lý trí trốn biệt, lời thơ Thật (viết hoa), cảm xúc
dạt dào, hồn thơ lai láng.
8/ Đạt được mục đích quan trọng nhất, cao cả nhất của
thơ là cho thi sĩ với độc giả, người với người cơ hội được trao đổi tâm tình bằng
Tiếng Người Chân Thật. Vũ Hoàng Chương – tác giả của Say Đi Em - xứng đáng có một
vị trí danh dự trong Bến Bờ Thi Ca.
KHUYẾT
ĐIỂM:
Trong 3 câu
Đôi
người gió sương
Đầu
xanh lận đận, cùng nhớ thương, càng xót thương...
Hoa
xưa tươi, trăng xưa ngọt, gối xưa kề, tình nay sao héo?
Cụm từ “cùng nhớ
thương” hơi “chõi” với “tình nay sao héo”. Hai người “cùng nhớ thương” thì sao tình lại héo?
Vũ
Hoàng Chương Say Thật Hay “Tỉnh Như Sáo”
Nhà phê bình Thu Tứ dẫn lời của nhà phê bình Vũ Ngọc
Phan về bài thơ Say Đi Em như sau:
Về
tập Thơ say (1940) của Vũ Hoàng Chương, trong Nhà văn hiện đại Vũ Ngọc Phan viết
“(tác giả) rất chú trọng đến sự gọt dũa lời thơ (...) Ðọc thơ ông người ta thấy
ít cảm động (...) Người ta có cái cảm tưởng đó chỉ là những lời nhớ hão, thương
hờ.” Riêng về bài sau đây (Say Đi Em), nhà phê bình nhận xét “cái say (của Vũ
Hoàng Chương) là cái say phát ra ở điệu thơ, ở nghệ thuật của ông, hơn là ở những
tính tình ông thổ lộ.”(1)
Và nhà phê bình Thu Tứ đưa ra cảm tưởng của mình:
Ðọc
thơ ông Vũ này, rồi đọc lời bình thơ của ông Vũ kia, thấy phân vân. Có phải Vũ
Hoàng Chương “nhớ hão, thương hờ”? Hay thực ra ông nhớ thật, thương thật, chỉ
những lời quá trau chuốt của ông gây cảm tưởng kém chân thành?
“Ta
quá say rồi”, nhưng lời thơ của ta cứ tỉnh như sáo, rắc rối hình như là ở
đó...(1)
Mặc dù rất kính trọng kiến thức rất rộng của hai nhà
phê bình Thu Tứ và Vũ Ngọc Phan về Văn Học, tôi không đồng ý với nhận định của
hai ông về bài thơ Say Đi Em.
Trong số rất nhiều định nghĩa thơ tôi may mắn gặp được
định nghĩa đề cập đến thời điểm thi sĩ cầm bút làm thơ của William Wordsworth:
"Poetry
is the spontaneous overflow of powerful feelings: it takes its origin from
emotion recollected in tranquility”.
"Thơ
là cảm xúc mạnh mẽ tự động trào ra, khởi đi từ cảm xúc được hồi tưởng trong sự
tĩnh lặng." (5)
Có nghĩa là, trái với suy nghĩ của nhiều người, tuyệt
đại đa số thơ được sáng tác, không phải ngay lúc tác giả tiếp cận với cảnh thơ
mà là sau đó một thời gian – dài ngắn tùy thi sĩ, tùy “độ lớn rộng” của đề tài,
của tứ thơ và độ dài của bài thơ. Đó là thời gian ấp ủ, thai nghén tứ thơ. VHC
viết Say Đi Em - một bài thơ bề thế (44 câu, 283 chữ) - không phải lúc say bí tỉ
ở vũ trường mà là một lúc tĩnh lặng nào đó khi đã về nhà. Có thể sau đó vài
ngày. Có thể vài tuần, vài tháng, và cũng có thể cả năm.
Từ một câu nói, một cảnh tượng hay một cái gì đó tình
cờ khơi gợi, kỷ niệm xưa bùng cháy trong tâm khảm và thi sĩ ghi lại bằng sự hồi
tưởng của mình.
Câu
nói của Thu Tứ
“Ta
quá say rồi’, nhưng lời thơ của ta cứ tỉnh như sáo, rắc rối hình như là ở
đó...”
là nhận xét của một người chưa làm thơ, hoặc làm thơ
mà chưa hiểu được, chưa thấy được, chưa ý thức được tiến trình làm thơ của
mình.
“Ta
quá say rồi” không phải là lời của VHC lúc đang say rượu
ở vũ trường mà là phát biểu của một VHC khác, ở một nơi khác, đang hồi tưởng, để
ghi lại bằng thơ cái tâm trạng của anh chàng VHC say bí tỉ ở vũ trường hôm đó.
Khi thi sĩ cao hứng đến mức nổi điên, con chữ cứ liên
tục trào ra ngòi bút. Lúc ấy, tính “xạo”
của cái tôi văn hóa (và cái tôi teo chim, nếu có) sẽ biến mất; những gì viết ra
sẽ là sản phẩm (không gian dối) của cái tôi đích thực. Tuy nhiên, lời thơ và cả
thế trận chữ nghĩa – dù không có sự kiểm soát của lý trí - vẫn mang dáng dấp đẳng
cấp của nhà thơ. Ngôn chữ trau chuốt, cao sang không vì thế mà chuyển thành
bình thường, dân dã. Câu thơ gọn gàng, trong sáng không vì thế mà thành tối mù,
khó hiểu.
Hơn nữa, khi tứ thơ đã dàn trải xong, thi sĩ có quyền
quay lại - với sự hỗ trợ của lý trí - để điều chỉnh, sửa chữa, miễn là đừng “đắp mô” cản hoặc làm lệch dòng chảy của
cảm xúc.
Hồn thơ, tức là cái hơi nóng của cảm xúc tầng 3, không
phải cứ mò mẫm, nắn bóp từng chữ, từng câu là “bắt” được nó. Cần phải có một tâm hồn nhạy bén, có thể “cảm” được “hận thù đằng đằng”, “đau thương chất ngất”, “hào khí ngất trời” …
không phải từ con chữ, từ câu thơ, mà từ “giữa những hàng kẻ” để “lấy hồn ta hiểu hồn người” (Hoài
Thanh).
Trong bóng đá, không phải lúc nào cầu thủ trên sân
cũng tỉnh táo đi bóng, chuyền bóng, sút bóng theo đúng bài bản của huấn luyện
viên đưa ra. Đôi khi tình huống xảy ra quá nhanh, không có thì giờ để suy nghĩ
tính toán. Lúc ấy cầu thủ phải dựa vào sự nhạy bén, vào giác quan thứ 6 của
mình để phản ứng, để chạy, để chuyền, để sút. Rất nhiều khi phản ứng ngẫu hứng
như vậy lại sản sinh ra những đường chuyền “đẹp
như mơ”, những cú đệm bóng nhẹ nhàng nhưng lại “bẻ gẫy lưng” thủ thành đối phương ghi bàn thắng. Nhiều cầu thủ xem
lại khúc phim đá ngẫu hứng của mình cũng lắc đầu, le lưỡi, không hiểu sao mình
có thể “tài tình” như thế được. Chính
lúc cao hứng, nổi điên, chơi xuất thần, “phi
bài bản” như vậy đã tạo nên nét đẹp đặc biệt của bóng đá, mới đưa bóng đá
lên hàng nghệ thuật.
Trong Nhìn Từ Xa
… Tổ Quốc, Nguyễn Duy – trong lúc cao hứng đến mức điên tiết – đã viết về
những tệ hại của XHCN và con người Việt Nam đúng và thật quá, ngôn ngữ hình tượng
mạnh mẽ, sinh động và táo bạo quá. Chính ông sau này cũng phải công nhận “khi viết xong thì chính bản thân tôi cũng bất
ngờ bởi vì không nghĩ là mình viết được những câu thơ như vậy.”
Một ông thi sĩ Trung Quốc nào đó, nói về kinh nghiệm của
mình trong việc uống rượu đã viết:
Dục
phá thành sầu duy hữu tửu
Dịch sát nghĩa:
Chỉ
có rượu mới phá được thành sầu.
Câu đó có thể đúng với rất nhiều nguời bầu bạn với Thần
Men, nhưng với Vũ Hoàng Chương trong Say Đi Em thì có sự khác biệt; phải chăng
là do nỗi sầu của ông quá sâu đậm? Khi đã đến đỉnh điểm của cơn say - “Say không còn biết chi đời” – thi sĩ họ
Vũ đã thốt lên:
Nhưng
em ơi
Ðất
trời nghiêng ngửa
Mà
trước mắt thành sầu chưa sụp đổ
Ðất
trời nghiêng ngửa
Thành
sầu không sụp đổ, em ơi!
những lời mà theo tôi, hoàn toàn thoát khỏi sự kiềm tỏa
của lý trí, và do đó, tuyệt đối không thể là những lời dối trá.
Hai nhà phê bình văn học tiếng tăm, đặc biệt là Vũ Ngọc
Phan, mà không cảm được hồn thơ, không nhận ra được sự chân thật trong lời thơ,
tứ thơ của Say Đi Em thì kể cũng lạ.
Kết
Luận
Vũ Hoàng Chương, bằng kỹ thuật thơ điêu luyện của
mình, đã tạo được dòng chảy thông thoáng cho tứ thơ. Nhờ thế cảm xúc mạnh mẽ
trong cơn say cũng chảy thành dòng, sóng sau dồn sóng trước. Khi cơn say lên đến
đỉnh điểm, cảm xúc dâng lên cao ngất, cũng là lúc tứ thơ vừa chấm dứt – bài thơ
kết thúc ở cao trào, hồn thơ lai láng. Với cảm xúc ở tầng 3 mạnh mẽ như thế, hồn
thơ nóng bỏng như thế, lý trí đã bị phủ mờ. Lời thơ lúc ấy – trào ra qua một
ngõ ngách nào đó từ vô thức – đích thị là tiếng lòng chân thật của thi sĩ.
Trong bài thơ Say
Đi Em, thi sĩ của chúng ta, nhờ thấm hơi men, đã có thể đưa lý trí của mình
“đi chỗ khác chơi” để có một thi phẩm
vừa chân thật vừa thấm đẫm hồn thơ. Ông đã làm được điều mà ngay cả những nhà
thơ siêu thực – bỏ rất nhiều công sức để nghiên cứu, thử nghiệm, nhằm loại bỏ
lý trí (để tìm lời thật) trong thơ – cũng chỉ thành công phần nào về mặt hình
thức. Họ tuy tạo được những vần thơ “phi
logic”, có “những va đập chói lòa của
từ ngữ” (J. Vaché), có khả năng ngăn cản lý trí của người đọc bước vào bài
thơ, nhưng đồng thời cũng chặt luôn cây cầu giao cảm giữa tác giả và độc giả
(7).
Theo tôi, với bài thơ Say Đi Em, Vũ Hoàng Chương đã xứng đáng được mời vào ngồi một chỗ
trang trọng trong Bến Bờ Thi Ca, nơi tụ hội những thi sĩ đã có tác phẩm mà qua
đó, nhờ đó, thi sĩ với độc giả được cùng nhau trò chuyện bằng Tiếng Người Chân
Thật.
Phạm Đức Nhì
CHÚ
THÍCH:
1 / (Vũ Hoàng Chương, Thu Tứ, gocnhin.net)
(http://www.gocnhin.net/cgi-bin/viewitem.pl?935)
2/ (Chi Tiết Thú Vị Về Khoa Thi Nho Học Cuối Cùng, Chí
Đức, kienthuc.net.vn)
(https://kienthuc.net.vn/tham-cung/chi-tiet-thu-vi-ve-khoa-thi-nho-hoc-cuoi-cung-405397.html)
3/ (Vũ Hoàng Chương, Wikipedia.org)
(https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C5%A9_Ho%C3%A0ng_Ch%C6%B0%C6%A1ng)
4/ (Thiên Tình Sử Của Thi Sĩ Vũ Hoàng Chương - Phần 1,
Phạm Thị Nhung, Cỏ Thơm)
(http://cothommagazine.com/index.php?option=com_content&task=view&id=103&Itemid=1)
5/ (William Wordsworth Quotes, Brainy Quote,
brainyquote.com)
(https://www.brainyquote.com/quotes/william_wordsworth_390135)
6/ (Thiên Tình Sử Của Thi Sĩ Vũ Hoàng Chương - Phần 2,
Phạm Thị Nhung, Cỏ Thơm)
(http://cothommagazine.com/index.php?option=com_content&task=view&id=808&Itemid=49)
7/ Vài câu, đoạn thơ Siêu Thực:
a/ Bông hoa
này của núi rừng đã vàng đi như những giọt lệ của chúng ta (Shéhadé)
b/ Dây trường
xuân / thân thể tôi...
Đảo /
cái bụng của nó...
(Char)
c/ Trên cây
cầu, vào cùng một giờ
Cũng vậy hạt
sương trên đầu con mèo cái đang tự dối mình.
(Bréton)
http://khoavanhoc.edu.vn/index.php/liluan-phebinh/268-hinh-nh-trong-th-sieu-thc
d/
Lẵng xuân bờ giũ trái xuân sa
Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà
Nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm
Tỳ bà sương cũ đựng rừng xa
Buồn hưởng vườn người vai suối tươi
Ngàn mây tràng giang buồn muôn đời
Môi gợi mùa xưa ngực giữa thu
Duyên vàng da lộng trái du ngươi
(Buồn Xưa, Nguyễn Xuân Sanh,
thivien.net)
Phần
Đọc Thêm
Nét
Đẹp Kiêu Sa Của Ngôn Ngữ Thơ Trong “Say Đi Em”
Ở đây tôi xin tuyển chọn một số chỗ có ngôn ngữ thơ
hay, đẹp để thay cho mục Ngôn Ngữ Thơ, lẽ ra phải có, trong bài bình thơ. Mục
đích là để bài viết khỏi bị loãng vì những chi tiết chưa đến mức thật quan trọng.
Mong những độc giả thích lối bình thơ bài bản thông cảm và lượng thứ.
1/
Hồn
ngả lâu rồi nhưng chân còn dẻo
Lòng
trót nghiêng mà bước vẫn du dương
Lòng
nghiêng tràn hết yêu thương
Bước
chân còn nhịp Nghê Thường lẳng lơ
Đoạn thơ này chứng tỏ tình của VHC đối với mấy cô ca
ve là thứ tình hờ. Chỉ cần hồn ngả, lòng nghiêng là “yêu thương” trôi tuột mất
một cách dễ dàng và nhẹ nhàng.
Tôi nhớ đến bài thơ Nghiêng của La Thụy. Nhà thơ, chủ
trang web Bâng Khuâng, cho lòng chao nghiêng để hương mê lắng đọng
Chừ
hoài niệm
Len
lỏi ngoằn ngoèo trong ký ức
Tình
xưa hẹn ước.
Có “chông chênh”
thì chỉ “rơi mất ánh trăng thề” chứ
tình thì vẫn đầy ắp. Thi ảnh của Nghiêng
đẹp hơn, nhưng VHC còn sử dụng 2 câu sau để làm cầu nối với đoạn kế tiếp, và đó
là một mặt của tấm bản lề vừa khít. Cho nên xét về thơ thì có thể nói kẻ tám lạng
người nửa cân. Còn nói về tâm hồn thì nhà thơ La thụy hiền lành và dễ thương
hơn.
2/
Ánh
đèn tha thướt
Lưng
mềm não nuột dáng tơ
Hàng
chân lả lướt
Đê
mê hồn gởi cánh tay hờ
Ai khoái món khiêu vũ lại thường được nhảy với đào ruột
của mình như Vũ Hoàng Chương sẽ dễ thấm, dễ cảm được cái hay của câu thơ “Đê mê hồn gởi cánh tay hờ” này.
3/
Say
đi em! Say đi em!
Say
cho lơi lả ánh đèn
Cho
cung bậc ngả nghiêng, điên rồ xác thịt
Dùng những cụm từ “lơi
lả ánh đèn”, “cung bậc ngả nghiêng” để nói về trạng thái say đã là xuất sắc
rồi. Còn say cho “điên rồ xác thịt” thì
quá tuyệt.
4/
Năm 1948, trong bài Đôi Bờ của Quang Dũng có 2 câu
Thoáng
hiện em về trong đáy cốc
Nói
cười như chuyện một đêm mưa
nói về hình ảnh, kỷ niệm xưa ẩn hiện “trong đáy cốc”, đẹp một cách hiền dịu.
VHC viết Say Đi Em trước đó khoảng 10 năm cũng có câu
“Có ai ghì hư ảnh sát kề môi”
cũng diễn tả những ảnh hình ẩn hiện ở đáy ly rượu.
Hay, có lẽ cả hai đều hay, nhưng theo tôi, câu thơ của
Quang Dũng còn hơi tỉnh (không đủ men say) còn câu thơ của VHC mạnh bạo hơn, cuồng
nhiệt hơn.
(Nguồn: Quang Dũng - tác phẩm chọn lọc, NXB Trẻ, 1988)
5/ Chữ “không”
ở câu cuối thật “đắt”
“Đất
trời nghiêng ngửa
Mà
trước mắt thành sầu chưa sụp đổ
Đất
trời nghiêng ngửa
Thành
sầu không sụp đổ, em ơi.”
Xin được lập lại mấy lời về cái “đắt” của chữ “không” này
Thành sầu của ông như đang chịu một trận động đất mạnh
đến mức “đất trời nghiêng ngửa” mà vẫn
“chưa sụp đổ” và đã chuyển từ chỗ “chưa sụp đổ” – còn chờ đợi, còn một
chút hy vọng mong manh - đến chỗ “không sụp
đổ” – nghĩa là đã hoàn toàn tuyệt vọng. Nỗi buồn sầu đã dâng lên đến đỉnh
điểm. Chữ “không” ở câu cuối “đắt” như kim cương.
Trong lúc tra cứu để viết bài này tôi có nghe ca sĩ
Anh Thư hát Say Đi Em, bài thơ của Vũ
Hoàng Chương được Nguyễn Dũng phổ nhạc. Bản nhạc kết thúc ở câu “Đất trời nghiêng ngửa, đất trời nghiêng ngửa,
mà thành sầu chưa sụp đổ, em ơi”. Nhạc sĩ Nguyễn Dũng – không biết vì lý do
gì – đã bỏ câu “Thành sầu không sụp đổ”.
Thật đáng tiếc, anh đã bỏ đi chữ hay nhất, câu thơ hay nhất của bài thơ.
Mời độc giả, nếu muốn, nghe bản nhạc ở link sau đây:
https://www.youtube.com/watch?v=5NhMaivUgG0
6/ Hai chữ “em
ơi” ở câu đầu và câu cuối đoạn 4:
Nhưng
em ơi
Ðất
trời nghiêng ngửa
Mà
trước mắt thành sầu chưa sụp đổ
Ðất
trời nghiêng ngửa
Thành
sầu không sụp đổ, em ơi!
Về ý nghĩa thì gần như dư thừa, chẳng đóng góp được
gì, nhưng được đặt đúng chỗ và kết hợp với nhau một cách khéo léo đã tạo được
âm vang tuyệt vời cho đoạn kết.