Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Sunday, February 1, 2015

Thơ Chu Vương Miện: XUÂN CUỐI ĐỜI / Ờ MÀ TRÁNG SĨ




xuân cuối đời

người ở đâu mà ta chốn đây 
bìa rừng dăm ngọn gió heo may
thổi từ bên này sang Xích Bích
qua Hồ Nam đồng cỏ xanh dầy
Trường Giang lớp trước nhường lớp sau
lớp trước không còn chả âm hao 
đứng ngó mãi về Kinh Châu Tân Dã
Dĩnh Nam Ngọa Long Cương dạt dào
tuyết lông ngỗng tà tà trên đất
trời xám từ đông hút tận đoài
lão nhân dắt lừa qua cầu đá
giòng nước đông rồi cành trơ côi
dẫy bạch mai ngủ vủi trong tuyết
bài ca Lương Phủ vọng bên tai 
giang hồ tứ chiếng vùi trong tuyết
ngựa cũng chùng cương đứng thở dài 
loạn vài mươi năm thành Tam Quốc
vừa Ngụy Thục Ngô đánh tơi bời
kẻ chết chả yên trong đất lạnh
kẻ sống mệt phờ tóc vướng tai 
tang thương bốn phía giang cùng nứa
Đông Hán Đại Tần cũng búa roi
yên dăm ba bữa thời tới loạn
khóc chán xoay qua lại nực cười
làm đám dân ngu sống chết dở
bát cơm bát máu bát mồ hôi
đánh lắm dơ cái thân gầy gụộc
vật không ra vật khỉ đười ươi 


ờ mà tráng sĩ

kiếm tuốt ra rồi kiếm sĩ ơi 
đầu thù không rớt đầu ta rơi 
gần 2300 năm cuối thời Chiến Quốc
nghe qua câu chuyện dạ bồi hồi
đâu phải đường gươm xoàng dở ẹc
chẳng qua kiếm sư Lỗ Câu Tiễn chả dậy thôi 
mới hay trời đất vô biên quá
chẳng qua thiên mệnh đã an bài 
gươm giáo chẳng qua đồ sắt vụn
hoa hòe hoa sói múa lôi thôi 
vàng nén vàng ròng trên mâm bạc
ném rùa nơi hồ bán nguyệt cầu vui
đầu Phàn Ô Kỳ râu tóc trắng
bàn tay Yên Cơ đủ mặn mòi
sông Dịch sớm đông mang mang chẩy
ô hay tang trắng ngập đầu người 
cũng tưởng gươm vàng ghi dấu sử
đâu ngờ diễn dở thế gian cười 
ôi thiên hạ luận thành với bại
lưu danh na ná giống danh hài 
đôi lúc chết vinh hơn sống nhục
muôn thời vẫn một ánh trăng soi
Cao Tiệm Ly nâng cao ống trúc
một cung sáo oán gửi muôn đời ?
một chiếc thuyền con bơi qua bắc
dân tiễn miền nam nước mắt rơi
ra đi mang tấm lòng hào kiệt
muôn năm vẫn một phía mặt trời
Kinh Kha vẫn anh hùng bất diệt
muôn năm vẫn trong trái tim người
thơ ngắn ghi tấm lòng luyến tiếc
anh hùng bất tử chả tàn phai ?

                               chu vương miện


READ MORE - Thơ Chu Vương Miện: XUÂN CUỐI ĐỜI / Ờ MÀ TRÁNG SĨ

Thơ Trúc Thanh Tâm: MUÔN DẶM TÌNH QUÊ 10 / CHÂU PHÚ QUÊ EM





MUÔN DẶM TÌNH QUÊ 10


28. THĂM PHAN THIẾT

Liên Trì chuông mãi đong đưa
Ta thăm Mũi Né, cát xưa xửa hồn
Poshanư, mắt huyền sương
Nhớ mùi bánh Rế, tình thương tình chờ !

29. CHIỀU QUẢNG NAM

Hải Vân, trời đất nên thơ
Ngũ Hành, mây gió đợi chờ ru nhau
An Khê còn đó, em đâu
Sông Hàn êm ả tím màu chiều rơi !

30. VỀ BÌNH ĐỊNH

Đồ Bàn theo tháng năm trôi
Trăng Hàn Mạc Tử sáng trời Quy Nhơn
Ngô Mây, cô bé dỗi hờn
Ba mươi năm, một giọt buồn nhói tim !

TRÚC THANH TÂM
 ( Châu Đốc )



CHÂU PHÚ QUÊ EM

Màu áo bà ba xanh thảm lúa
Đàn cò hạ cánh trắng bờ đê
Xa xa ngọn khói lên trời mộng
Mạch đất mang hồn hơi thở quê

Đồng Láng Linh mùa mưa tháng chín
Em bơi xuồng nhỏ hái hoa vàng
Anh hóa tình anh vào cơn gió
Xuống bến đợi chờ em quá giang

Cá linh non thương mùa nước nổi
Ăn mắm kho để nhớ quê nghèo
Mắc võng ngoài vườn nghe chim hót
Đêm rằm dìu dịu ánh trăng treo

Lặt lá mai vàng cho kịp tết
Nhìn em hé nở nụ cười tươi
Cho anh ở lại xin làm rể
Gởi trọn ân tình Châu Phú ơi !

 29. 01. 2015
TRÚC THANH TÂM
( Châu Đốc )



From: <tructhanhtaam@yahoo.com>
READ MORE - Thơ Trúc Thanh Tâm: MUÔN DẶM TÌNH QUÊ 10 / CHÂU PHÚ QUÊ EM

PHỐ ĐÊM - chùm thơ Trương Đình Phượng


Thị xã Quảng Trị về đêm. Ảnh Mai Lĩnh


PHỐ ĐÊM

hoang hoác góc phố đêm
những ánh đèn ốm
mỏi mệt phả màu
điếu thuốc tàn
khói buồn còn vảng vất
lưỡi gió liếm dần nỗi niềm chân thật
trả lại cho ta ký dấu giả vờ...
tự nắm tay mình
khát mùi hương meo mốc
gom bước độc hành
nhớ vị bàn tay...
tình yêu hoang vu tự độ xa vời
em thành bài thơ nhàu úa
đem nay ta lục tìm trong ngăn lòng cũ kỹ
chợt thấy hồn xưa tê tái trở mình
hoang hoác góc phố đêm
trơ xác lá vàng
những ánh đèn say ngủ
gió phũ phàng lật tung chăn phố
ta dìu ta về gác nhỏ
mồ côi....

.
CHỪNG NHƯ

Chừng như gió khóc thương mùa
chừng như ai đó mới vừa ra đi
chừng như buồn nhớ định kỳ
chiều nay heo hút
ghé về thăm tôi


LY BIỆT

Ừ em cứ đi
sắp cạn ly ngày
còn lại mình ta và đêm hoang phế
khêu tro tàn tìm dấu tích yêu thương
ừ em cứ đi
khai mạc cuộc đời hương
còn lại ta và vườn xưa
ngút cỏ
miệt mài gom mùa gió
dệt áo ngây thơ liệm xác chân tình
ừ em cứ đi
đừng lần ngoái lại
lối cũ ta về
chiếc lá cuối
vừa rơi


KÌA EM

Kìa em
đừng bẻ vần thơ
cho tôi đi nốt ngu ngơ dặm tình
ừ thì em cứ lặng thinh
quay lưng
bỏ mặc một mình thuyền tôi
chênh vênh lạc bến chợ đời
khản hơi rao bán một trời bão giông

                                 TRƯƠNG ĐÌNH PHƯỢNG



From:  <phuongtd217984@gmail.com>
READ MORE - PHỐ ĐÊM - chùm thơ Trương Đình Phượng

THƠ NÓI HOANG CỦA THÁI QUỐC MƯU - Châu Thạch




THƠ NÓI HOANG CỦA THÁI QUỐC MƯU 
Châu Thạch

Tự điển VN định nghĩa chữ “ngộ nghĩnh” là “lạ và khác thường”.Vậy tôi xin dùng chữ nầy để nói về một số bài thơ của nhà thơ Thái Quốc Mưu.

Tất nghiên chữ ngộ nghĩnh không dùng như nói một đưa bé ngộ nghĩnh mà ở đây là những bài thơ ngộ nghĩnh tức là những bài thơ có sự tinh tế và độc đáo riêng của nó. Độc đáo vì những bài thơ nầy có một chút lập dị, một chút ngông, một chút hài hước nhưng ý có chứa ẩn dụ cho đời suy nghiệm.




Trước hết hãy đọc bài thơ “Bãi Biển chiều buông”:

Bãi biển chiều buông sóng dập dồn
Cạn nguồn ta kết thử vần ôn
Từng bầy xuân nữ nằm phơi rốn
Mấy đám thanh niên đứng ngắm... ồn
Đồi núi cỏ cây chen chúc lá
Triền khe mạch suối luyến lưu hồn
Ông to, ông nhỏ, ông…dân giả
Nào kẻ chẳng mê thú vỗ... ồn.

Đọc hai câu thơ đầu ta tưởng nhà thơ Thái Quốc Mưu là người không biết làm thơ, vì bí thế không tìm ra từ ăn vận với chữ “dập dồn” ở câu thơ trên nên ghép đại chữ “vần ồn” vô nghĩa vào thơ. Thường thường đó là cách làm thơ “con cóc” của những người mù tịt về thơ. Thế nhưng đọc tiếp những vế thơ sau thì ta thấy chữ “vần ồn” mở ra một bầu trời rộn rịp, vui vẻ của bãi biển chiều buông. “Vần ồn” từ chỗ khô cứng trở thành cánh cửa linh hoạt cho ta bước qua một khung trời tươi vui, đã mắt.

Thế rồi hai câu thơ tiếp:

Từng bầy xuân nữ nằm phơi rốn
Mấy đám thanh niên đứng ngắm... ồn

Có thể nói rằng hai câu thơ nầy tác giả tả chân. Hình ảnh các cô gái thanh xuân nằm phơi nắng hiện ra gần như lỏa lồ trước mắt chúng ta. Hình ảnh mấy đám thanh niên với cái nhìn khả ố cũng hiện ra trước mắt chúng ta. “Ngắm... ồn” là ngắm gì? Ồn là tiếng động thì nghe bằng tai chứ làm sao ngắm bằng mắt được. Tất nhiên người đọc phải hiểu chữ “ngắm... ồn” theo nghĩa xấu hơn qua hình thức thêm chữ “L” trước chữ “ồn”. Câu thơ đến đây trở thành tục và hình ảnh đến đây trở thành dục. Tuy thế cái tục và cái dục trong thơ không làm cho chướng mắt chướng tai mà hiển hiện ra trong trí ta một bức tranh sống động với những hình ảnh, những âm thanh vui tai, vui mắt.

Hai câu luận của bài thơ như sau:

Đồi núi cỏ cây chen chúc lá
Triền khe mạch suối luyến lưu hồn

Hai câu thơ nầy tác giả tả phong cảnh trên bãi biển nhưng cố ý làm cho người đọc liên nghĩ đến những bộ phận trên cơ thể các cô xuân nữ đang nằm “phơi rốn” kia. Cách chơi chữ trong hai câu thơ trên làm cho hình ảnh như một bức tranh phóng tác và làm cho hình ảnh tục mà ta liên tưởng tới không trắng trợn.

Đến hai câu kết của bài thơ tác giả dùng cái cười chế diễu theo kiểu Hồ Xuân Hương xưa kia để gom hết người đời vào trong cái sở thích “làm ở chỗ kín” kia:

Ông to, ông nhỏ, ông... dân giả
Nào kẻ chẳng mê thú vỗ... ồn

Lại chơi chữ “vỗ... ồn” nữa. Chắc chắn người đọc nào cũng nghĩ rằng phải thêm một chữ “L” trước chữ “…ồn” là đúng ý.

Thật ra tác giả chơi chữ thật là khéo léo, không dùng cách nói ngược như nhiều người đã thường dùng từ xưa đến nay. Chữ “ngắm... ồn” trong câu thơ trên thật ra là “ngắm cồn”. Có thể hiểu ngầm “ngắm cồn” là ngắm các phần nhô lên trên thân thể các cô nằm phơi nắng, còn nghĩa trắng là ngắm các đồi cát trên bãi biển chiều buông. Chữ “vỗ... ồn” trong câu thơ dưới thật ra là “Vỗ bồn” có nghĩa là mọi người đều thích vỗ bồm bộp trên mặt nước khi tắm trên biển hay khi ngồi tắm trong bồn. Ngoài ra, “vỗ bồn” còn là điệu nhịp, một thú chơi tao nhã của giới của tao nhân mặc khách. Thầy Trang Tử từng “vỗ bồn vừa ca”.

Hai chữ “ngắm... ồn” và “vỗ... ồn” được tác giả giải thích cuối bài thơ sau khi để cho người đọc được cười tủm tỉm trong cái vui hiếu kỳ và cười vui vẻ khi hiểu ra các chữ đánh đố kia.

Bây giờ ta hãy đọc tiếp một bài thơ “ngộ nghĩnh” khác của Thái Quốc Mưu:

CỘI NGUỒN
Ta vốn sinh ra ở chốn nầy
Bởi dòng kinh, đất bị chia hai
Ven bờ chằng chéo dây leo phủ
Hạt giống gieo neo giữa luống cày
Mương rạch xẻ lằn như mắc cưởi
Ranh rìa đắp cạn chẳng kiêng ai
Soi bờ lỗ mội tuông ra rả
Hôm sớm cứ lo đóng cọc hoài.

Trong bài thơ “Cội Nguồn” tác giả tả nơi chốn mình sinh ra nhưng dòng thơ cũng khiến cho người đọc liên tưởng cái bộ phận mà mọi người đều chui ra từ đó.

Chữ “Cội Nguồn” mang hai ý nghĩa, một nghĩa trắng và một nghĩa đen. Nghĩa trắng chỉ gốc gác của người là một vùng đất hoang sơ, nghĩa đen chỉ “cái chỗ” nơi mà người sinh ra nó cũng rậm rạp như thế. Ta thấy dầu bài thơ nầy mang ý nào thì chốn “cội nguồn” rất phì nhiêu ấy cũng đem đến cho ta sự thanh tịnh, lắng đọng trong tâm hồn và một sự yêu mến trước hình ảnh dòng kinh, mương rạch kia. Khi hiểu theo nghĩa trắng của bài thơ thì “Cội Nguồn” là địa phương nơi tác giả sinh ra. Nhưng, khi hiểu theo nghĩa đen của bài thơ thì “Cội Nguồn’ là nơi mọi người từ l òng mẹ chui ra. Tác giả cố ý tả cái phong cảnh còn hoang sơ như từ thuở hồng hoang để ám chỉ cái chỗ mà loài người lọt ra, làm cho bài thơ không dung tục mà chan chứa hình ảnh gắn bó thân yêu nữa.

Bây giờ xin mời bước qua cái “Sân Tennis cũ” của tác giả:

SÂN TENNIS CŨ

Cái sân Ten-Nít đã bao đời
Sạt lún lung tung chỗ lõm, lồi
Mấy vạch phân chia ba bốn mảnh
Đường viền đứt đoạn mấy lằn vôi
Chung quanh cỏ mọc lan tràn khắp
Một vũng nước dâng mấp mé rồi
Cây vợt nằm lỳ trên góc xó
Banh lông hai quả chẳng còn hơi.

Cái sân Tennis cũ thì chẳng có gì đặc biệt nhưng tác giả đã lồng vào nghĩa đen của bài thơ làm cho bài thơ trở nên có ý nghĩa và làm cho cái sân Tennis thật trở nên sinh động. Sự loan lỗ của cái sân Tennis cũ là một sự phí phạm nơi dùng để vui chơi của con người. Những hình ảnh miêu tả cái sân làm ta liên tưởng đến cái của giống cái và cái của giống đực b ị b ỏ không thật là phí phạm.

Hai đồ vật phồn thực của giống cái và giống đực được tác giả đem phơi bày lộ thiên được mô tả đươi hình ảnh cái sân Tennis nên mất đi cái hình ảnh xấu khó nhìn. Cái sân Tennis là nơi con người chơi thể thao đã bị bỏ đi hư hao nhưng qua sự diễn tả khéo léo của tác giả, người đọc liên tưởng cái sân thành bộ phận của nữ và của nam bị “bỏ quên” không hoạt động lâu ngày và trở nên vô dụng.

Tác giả thái Quốc Mưu còn nhiều bài thơ như thế, những bài thơ mà tôi cho là “ngộ nghĩnh” vì nó luôn luôn mang hai hình ảnh và một ý nghĩa. Một hình ảnh thật là hình ảnh mô tả sự vật thật của nó. Một hình ảnh ảo được gợi lên từ hình ảnh thật khiến cho người đọc cười tươi vui vẻ thích thú! Cả hai hình ảnh đều hàm chứa một ý nghĩa trong lẽ sống ở đời. Đa số những bài thơ loại nầy tác giả không dùng từ ngữ nặng nề. không dùng hình ảnh thô tục trắng trợn nhưng vẫn đem đến cho người đọc nụ cười hóm hỉnh.

Tất nhiên các nhà thơ làm thơ theo kiểu “nói hoang” như thế ít nhiều gì cũng chịu ảnh hưởng của thơ Hồ xuân Hương. Tuy nhiên Thái Quốc Mưu không rập khuôn theo phong cách xưa cũ mà riêng ông tạo được cho mình một sắc thái mới.

Thơ “nói hoang” của Thái Quốc Mưu có hình ảnh không lộ liểu phản cảm, có nụ cười dí dỏm nhẹ nhàng, như cách nói đùa lý thú của các bậc túc nho uyên thâm thời xưa vậy.


                                                     Châu Thạch
READ MORE - THƠ NÓI HOANG CỦA THÁI QUỐC MƯU - Châu Thạch

HÀN SĨ NGHINH XUÂN PHÚ - Kha Tiệm Ly

Tiemly Kha
                    Tác giả Kha Tiệm Ly


HÀN SĨ NGHINH XUÂN PHÚ

Tiền viết mướn chỉ đủ mua gạo lẻ lưng nồi,
Nhà ở thuê kiếm đâu ra mai vàng trước ngõ!

Nghĩ thân ta,

Te  tua mái lá, mặc tình gió bấc mưa nam,
Quạnh quẽ bàn thờ tủi thân ông sơ bà cố!
Mua xôn giày dõm, lê mấy bước thì hả miệng hả mồm
Ráng sức xe cùi, đạp vài vòng cứ trật sênh trật chó!
Không hoa không quả, không nhang đèn, Trời Phật, Chư Thiên dù chẳng sân si,
Chẳng chuối chẳng chè, chẳng hương khói, Ông Địa Thần Tài đếch thèm gia hộ!
Tiền nhà tiền điện, chạy sút quần mệt bở hơi tai,
Nợ mẹ nợ con, há tét miệng chửi banh ngoài ngõ!


Thế nhưng,

Cơm lưng bụng, quân tử cần chi hải vị sơn hào,
Quần sờn mông, hảo hán chẳng màng chi tơ tằm vải bố!
Dẫu nghèo tiền nghèo bạc, mà ba miền tao nhân mặc khách dẫy đầy,
Lại giàu bạn giàu bè, cùng bốn biển, khí phách đệ huynh vô số!
Từ người cửa rộng nhà cao,
Đến kẻ đầu đường xó chợ!
Luôn xa lánh phường chém chú đâm cha,
Lại xót xa bọn trộm trâu trộm chó!
Lòng như nước trong leo lẻo, mặc bấy người đổi trắng thay đen,
Mặt tợ trăng sáng ngần ngần, dễ cho ai trét vôi trét lọ!

Ô hô!

Dù răn con khuyên cháu, chớ theo văn hóa bọn rợ Tàu.
Mà ngứa bút khua nghiên, lại xổ văn … gừng vài câu đối.

Đối rằng:

Trong nhà năm xe sách vở mối mọt lăm nhăm,
Ngàn dặm bốn hướng sông hồ anh em lố nhố.

Cho nên,

Đầy bè đầy bạn, lo chi chén tạc chén thù,
Không vợ không con, sợ gì tiếng chày tiếng cối !
Dăm lít rượu rừng rượu đế, sớm chiều mặc tình tỉnh tỉnh say say,
Ba bữa cơm nguội cơm ôi, sáng tối chẳng sợ no no đói đói.
Gạo rau phun thuốc, dại gì mà dộng cành hông,
Rượu đế pha cồn ai nói chẳng say tới bến?

Mắt nhìn hí hí, xem cuộc cờ, ung dung nâng chén uống râm ri, 
Lời thốt tràn tràn, luận anh kiệt, hào sảng vỗ bụng cười hô. hố.                                               
Đất cằn cây lớn, nơi hàn môn xuất hào kiệt  tàng tàng,
Chùa rách Phật vàng, trong áo vá tỏa phong nghi lồ lộ.

Xét mình:

Dù chữ Dũng nào dám sánh Tăng Sâm,
Còn chữ Hiếu vẫn thua xa Tử Lộ.
Đức mỏng, đâu dám đo cùng bậc thánh, bậc hiền.
Tài hèn, chẳng đủ bàn chuyện kim, chuyện cổ!

Chẳng qua:

“Phú quý do thiên”
Quan trường tại số.
Cam La má tròn phinh phính đã đạt công khanh
Bá Lý tóc trắng phơ phơ mới ngồi trướng hổ!
Trên cao chót vót mà dòng suối rộng được mấy tầm?
Dưới thấp lè tè nhưng biển khơi sâu hơn nghìn bộ!
Nơi quyền môn có khi thừa kẻ vô lại tham tàn.
Chốn thảo lư lại chẳng thiếu bậc tài hoa đức độ!
Chớ gặp khi thất thời mà dấm dứ dấm da,
Đừng cậy lúc thượng phong mà xí xa xí xố!

Chỉ tiếc cho:

Núi cao nghìn trượng mà chẳng còn đá cứng gươm mài,
Trời rộng thênh thênh lại chẳng dung đại bằng cánh vỗ!
Chua xót lắm! Bụng kinh luân  mà giống túi đựng cháo đựng cơm,
Cay cú thay! Vai thao lược lại thành giá máng quần máng áo! *
Thả cần sông Vị. mà vắng người Văn, Vũ; chỉ hoài công chờ vận đợi thời,
Đốt lửa non Lương, lại bặt tăm Tiều, Tống; đành phí sức đốn cây cưa gỗ!
Cái lợi cái danh, từ xưa kèo cựa một mớ ba đồng,
Cái đức, cái tài, ngày nay xa cạ một đồng ba mớ!
Nghênh ngang ngọn bút, mà hùng tâm chưa vọt thấu chín tầng,
Sang sảng lời thơ mà khẩu khí còn nằm im mấy độ !

Tâm đắc quá:

“Bần tiện bất năng di
Uy vũ bất năng khuất”

Thì sá chi câu:

“Tiểu nhơn đắc thế tợ điểu phi thiên,
Quân tử thất thời như ngư vô thủy”

Hôm nay,

Ngà ngà men rượu, hứng chí viết dăm chữ lăng nhăng,
Thân thiết bạn hiền, vui miệng nói vài câu nhí nhố.
Chúc mọi người an lạc bốn hướng đông tây,
Hưởng mùa xuân hạnh phúc nhất nhì kim cổ!

                                                Kha Tiệm Ly
READ MORE - HÀN SĨ NGHINH XUÂN PHÚ - Kha Tiệm Ly