Tôi rất vui được xem và nghe phóng sự của Đài Phát thanh
và truyền hình Quảng Trị về “Nét đẹp làng quê” giới thiệu Làng Đâu Kênh của
tôi.
Tôi sinh ra và lớn lên tại mảnh đất này. Những ngày
tháng ấu thơ tôi có nhiều kỷ niệm. Gia đình thuộc loại nghèo khó, tuổi thơ tôi
cũng như bao đứa trẻ khác đều gặp khó khăn trong việc cắp sách đến trường.
Không những làng tôi mà cả cái tỉnh nghèo khó này cũng thế.
Cả gia đình tôi chỉ có mấy sào đất trong vườn, ba mẹ
tôi phải đi làm nghề mướn nhiều nơi, anh em chúng tôi phải ra nương nhờ bên ngoại
tại làng Thượng Nghĩa bên nách thị xã Đông Hà. Vì vậy khi thi rớt Đệ thất Trung
học Nguyễn Hoàng (một ngôi trường Trung học
đệ nhất cấp Công lập độc nhất của tỉnh Quảng Trị.) nên tôi vào lớp đầu tiên
của trường Trung học Bán công Đông Hà. Nhưng cũng chỉ vài tháng đành phải bỏ vì
không có tiền đóng học phí. “Nhất nghệ
tinh, nhất thân vinh”. Tôi quyết rẻ qua con đường học nghề. Nếu như không
có ý tiến thủ, chắc tôi đã là một thợ may chính hiệu rồi.
Ngồi trong tiệm may của cậu, buổi sáng hay chiều, nhìn
ra đường thấy bạn đồng lứa cắp sách đến trường mà lòng mình se lại. Cứ nghĩ về
tương lai mà lòng quặn thắt, cứ nghĩ bao đời nghèo khó vì thiếu học mà đau
nhói, cái gương của quý Cụ trong làng cho tôi bài học vô giá ấy. Chỉ có cái học
mới vượt được nghèo khó và chỉ có cái học mới là chìa khóa vạn năng mở các kho
tàng khoa học. Nghề may không còn là hấp lực ngăn cản tôi trở lại sân trường. Tương
lai nghề may không lấy gì hấp dẫn. Chuyện học vô cùng khó khăn đối với thân phận
nghèo khó như tôi. Tôi không nản lòng, khi nhận thêm một lần thi hỏng.
Nỗi đau và buồn không làm nhụt chí người học trò nghèo
như tôi. Trời không phụ lòng người, với sự quyết chí và đam mê việc học, cuối
cùng tôi cũng được vào ngôi trường công lập ấy.
Bảy năm dài đăng đẵng, mình phải vượt qua muôn ngàn
khó khăn, khi ngồi hồi tưởng lại không biết làm sao mình vượt qua được?
Hoàn thành bậc Trung học, với mớ kiến thức ấy mình có
thể vào đời bằng nhiều con đường khác nhau. Nhưng tôi thấy mình đam mê việc học,
và mình định hướng cho tương lai.
Tôi luôn nghĩ, chỉ có ánh đèn điện mới làm con người
thấy được nền văn minh của nhân loại. Tôi vào thành phố mà một thời được vinh
danh “Hòn Ngọc Viễn Đông”. Xuống chiếc
xe đò cũ kĩ, vào một đêm khuya, tôi chưa có điểm đến và điểm dừng.
Rồi tôi được một ân nhân cưu mang cho ăn ở. Chẳng bao
lâu tôi nhận dạy kèm cho một học trò lớp đệ tam con chủ, với một số tiền thù
lao khá hậu, có chỗ ăn ở qua ngày.
Ước mơ của tôi đã trở thành hiện thực, chủ nhà cũng đồng
tình và ủng hộ trong việc học của tôi. Tôi ghi danh vào trường ĐHKH. Việc học
chưa bao lâu thì chiến tranh lan rộng, chính phủ ra lệnh Tổng động viên toàn lực.
Tôi được đưa vào quân trường Thủ Đức gần cuối năm 1966.
Số phận đã an bài, khi mãn khóa tôi trở lại quê nhà
trên vai đầy súng đạn, tôi dẫm nát vùng giới tuyến trong nhiều cuộc hành quân. Máu
tôi đã đổ ở căn cứ A1, trên vùng đất có hàng rào điện tử Macnamara, mà chính
tôi đã được học về nó.
Đầu năm 1968 tôi được trở lại Sài Gòn hoa lệ, được làm
loại sĩ quan kiểng. Năm 1969 tôi chuyển về quân trấn Cần Thơ và cuối năm ấy tôi
được trở lại giảng đường Đại học Phú Thọ và Đại Học Maryland Long Bình trước
khi đi học ở Mỹ.
Nhưng cuộc đời đâu lúc nào cũng suôn sẻ, cuối năm
1973, việc du học bị hủy bỏ, do ngân sách ngoại viện, trong chương trình Việt
hóa, tôi thi vào làm việc ở công ty National Nhật. Có dịp qua Nhật ngắm hoa anh
đào trong cuối năm ấy.
Năm 1975 đất nước hết chiến tranh, tôi vẫn trụ lại Sài
Gòn cho đến tận bây giờ. 1978 lấy vợ, năm 1979 có con đầu lòng khi tuổi đời gần
40. Rồi đâu cũng vào đấy, 4 con lần lượt rời giảng đường Đại Học rồi có công ăn
việc làm ổn định. Nhờ phước đức ông bà, tổ tiên gia đình tôi được sức khỏe, an
phận với sự nghiệp của mình.
Tuổi đời chồng chất, nhưng tôi nặng lòng với quê nhà,
mỗi lần trở về, nhìn sự đổi mới xóm làng mà lòng khởi sắc vui mừng. Con người
khi tuổi càng cao, thường sống nhiều với quá khứ, sống lại với tuổi thơ, những
kỷ niệm dồn dập quay về, chính những giây phút ấy hình bóng quê nhà, những khó
nhọc, vất vả, những ngày nắng cháy da, những đêm dài lạnh buốt, những gánh nặng
trên vai, những giọt mồ hôi ướt đẫm chiếc áo nhiều mãnh vá, nỗi nhọc nhằn ấy
làm oằn vai người cha, người mẹ, một đời khó nhọc vì đàn con.
Tuổi già, nhìn lại mới thấy thương cha mẹ một đời lam
lũ. Công lao trời biển mẹ cha. Một nỗi đau tê buốt là không còn người để phụng
dưỡng đền ơn. Quê hương ơi, với bao nỗi nhớ, những quặn lòng thổn thức.
Mỗi lần về lại, con đường, mảnh vườn xưa, những kỷ vật
của người cha người mẹ, tôi vẫn tìm thấy đâu đây những giọt mồ hôi, cả những giọt
máu của người vì đàn con mà đổ xuống.
Ôi:
“Quê
hương nếu ai không nhớ, không lớn nỗi thành người.”
“Khi
ta ở chỉ là đất ở. Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn.”
Tuổi tôi nay quá thất thập, khi trở lại sao mình quyến
luyến quê nhà, mảnh đất mà mẹ cha nuôi mình khôn lớn.
Năm 1558 khi chúa Tiên Nguyễn Hoàng dừng chân ở Ái Tử,
mở đầu việc mở cõi phía Nam. Năm 1563 khi dời đô về Trà Bát dựng nghiệp làng
Đâu Kênh ở phía Đông Nam cùng làng Hoa la tức làng Bích la Thượng bây giờ.
Quê tôi còn đó, gồm chín Xóm thôn, còn đó đình làng,
ngôi chùa Thiên Tôn cỗ nhất Nhà Nguyễn, làng tôi có Lục Miếu thờ 6 vị thần có
công lớn với Triều Nguyễn, trong đó có 3 vị quan Trung Đẳng Thần thuộc họ Võ, một
vị quan thuộc họ Đỗ và 2 vị quan không phải dân làng nhưng cai quản vùng này.
Họ Võ làng Đâu kênh có một vị Tiến sĩ Võ đầu tiên ở Miền
Nam là Ngài Võ Văn Lương đang thờ ở Văn Miếu Huế.
Không biết từ bao giờ, nguyên sông Thạch Hãn chảy từ
làng Bích Khê, Đại Lộc Thượng, Bích la Thượng, Đâu Kênh, Đại Lộc Trung rồi ra
sông Thạch Hãn. Như vậy làng Tân Đinh, An Mô, Bịch la Thượng, Xóm Rào Thượng,
Xóm Rào Hạ ở phía bên kia sông. Bàu Sen làng tôi chính là dòng sông Thạch Hãn
cũ. Không rõ nguyên do nào dòng sông Thạch Hãn nắn dòng như hiện nay. Để làng
Tân Định, An Mô, Bích la Thượng, Xóm Rào Thượng, Xóm Rào Hạ, một phần nhỏ làng
Đại Lộc Trung lại nằm bên này sông như hiện nay.
Hai Xóm Rào Thượng, Rào Hạ kết hợp với Xóm Bàu, Xóm
Hói, Xóm Đùng, xóm Triêu, Xóm Kiệt, Xóm Cồn, Xóm Bồi, nằm 2 đầu kênh hay đâu
hai kênh lại nên có tên gọi Đầu kênh, Đâu kênh, Đâu kinh, Đầu Kinh hay Đâu
kênh (kênh = kinh = kêng). Tên trong danh mục làng tôi hiện nay là: làng ĐÂU
KÊNH.
Cách đây gần 15 năm, theo quy định tổ chức hành chánh,
thì làng tôi chia thành 9 làng. Như vậy tên làng Đâu Kênh không còn nữa, mà lấy
tên 9 Xóm thành 9 làng: Triêu, Đùng, Hói, Bàu, Rào Thượng, Rào Hạ, Kiệt, Cồn, Bồi.
Sự lo lắng của bà con dân làng, chúng tôi có Kiến nghị
với Sở Tư Pháp và UB Tỉnh xem xét vì đây là làng có gần 600 năm lịch sử và đề
nghị đổi thành 9 làng từ Đâu Kênh 1 đến Đâu Kênh 9.
Nay các thủ tục Hành chính vẫn còn là làng Đâu Kênh có
kèm theo Xóm (như Xóm Bàu Đâu kênh, xóm Bồi Đâu Kênh...).
Khi có chủ trương sợ mất tên làng nên tôi có Bài thơ
dưới đây :