Tác giả Nguyễn Đức Tùng |
CÓ MỘT MÙA TỰU TRƯỜNG
Nguyễn Đức Tùng
Tháng chín. Khi chúng tôi chuyển về một thị trấn nhỏ phía
bắc Alberta, theo chương trình bảo trợ của nhà thờ Mennonite, mùa tựu trường đã
tới.
Trường học cách chung cư chúng tôi nhiều khu phố, nhưng có
thể đi bộ. Mọi người, trẻ và già, đều phải đi học. Những người bạn bản xứ giúp
chúng tôi lúc bỡ ngỡ, mang tặng quần áo, bàn ghế, sách vở. Nhà thờ cung cấp bữa
ăn tối miễn phí, nấu sẵn, nhưng không có ngân sách cho bữa ăn trưa và sáng.
Cùng với tháng chín là tiếng động cuối cùng của mùa hè,
tiếng cười nói trên hành lang, tiếng
bước chân lạo xạo trên đường lát đá cũ, tiếng lách cách của túi xách, ba lô,
tiếng chuông vào lớp, tiếng động của tương lai và của ký ức dội về từ thế giới
bỏ lại. Đối với nhiều người, học hành chỉ là kỷ niệm đẹp, nhưng đối với kẻ cắp
sách tới trường, dù nhỏ hay lớn, tâm trạng phức tạp hơn, hứng khởi xen với lo
âu, căng thẳng. Những ngày đầu của bạn mới, thầy mới, mùi mực, mùi giấy, mùi
phấn, mùi của các kỳ thi, bảng điểm, nụ cười, cái nhìn nghiêm khắc. Những khả
năng dẫn tới chuyện tốt lành hay hỏng bét. Gánh nặng gia đình quê cũ, gánh nặng
bài vở, tiền bạc, mặc cảm.
Những người mới đến có thể làm nhiều việc kiếm tiền như lau
rửa xe hơi, đổ xăng ở trạm xăng, rửa chén. Thị trấn có mười tiệm ăn, chừng ấy
quán cà phê, năm tiệm fastfood, vài trạm xăng, một bưu điện, thư viện mở cửa
thứ hai đến thứ bảy, vài quán bars. Các gia đình phần lớn đều có đạo, nhà thờ
Mennonite, Anh giáo, nhà thờ các trưởng lão, với những người có nguồn gốc từ
Đức, Ba Lan, Ukraine, hiền lành. Hàng xóm giúp đỡ nhau, các bà nội trợ dừng lại
bên hàng rào trò chuyện. Nhà thờ mở cửa trong ngày chủ nhật, thứ ba, thứ năm,
những nhóm học thánh kinh, đám cưới, tang lễ, những buổi hòa nhạc Giáng sinh,
các lễ cầu nguyện, những vỏ bia lăn lóc ở xóm người lao động, trước cửa các
tiệm Tàu. Đường phố vắng vẻ vào cuối tuần, yên tĩnh, an toàn. Có sự cô độc
nhưng không buồn chán, có tật nghiện rượu và nạn tự tử của thổ dân nhưng hầu
hết dừng lại trong vài khu phố. Những ngày nghỉ chúng tôi tụ tập trong phòng
thể thao của nhà trường coi bóng rổ, ngoài công viên coi bóng chày. Những người
mới đến ngồi chen chúc với những đứa trẻ tóc vàng hoe, những người đàn bà
Mennonite mặc váy đồng phục đen, đội mũ rộng vành, cùng nhau cười đùa la hét
trước các màn đấu bóng, khi hoàng hôn xuống, sao xanh lấp lánh trên nền trời.
Trời mát, núi lẩn vào sấm chớp, sau đồng cỏ bảng lảng khói,
trải nhiều dặm, những bó cỏ lớn lăn đi, cuộn tròn, chất thành đống cho ngựa ăn.
Mùi của đá bốc hơi nắng, cỏ, dâu, đậu, bắp, bò, ngựa, mùi băng giá sẽ tới. Mùa
đi săn cũng tới với blueberries chín mọng. Chúng tôi đi từng đoàn xuống vùng
quê, đàn ông leo cây hái trái, những người thợ săn bản xứ vào núi săn moose,
phụ nữ cúi gập người bên những chùm dâu, cho chúng vào đầy các bao tải. Sau
ngày tựu trường, nắng nhạt đi, gió thổi ào ào, sương che khuất ngôi nhà trơ
trọi giữa đồng.
Sau lưng chung cư, cánh rừng bao bọc bởi những bãi cỏ thả
ngựa và gia súc, chạy dài hút mắt trổ đầy cúc và lilacs. Dưới những lùm cây,
bạn có thể nhìn thấy những cửa hang của chồn và cáo, của chuột chũi. Gần một
bụi rậm, một chiều đi học về, tôi gặp một con chồn hoang lông đỏ, đuôi cong,
mặt dữ, mũi nhọn hoắt. Tôi chưa bao giờ gặp một con vật nào ghê gớm thế, nhỏ
bằng nắm tay, mạnh mẽ, lanh lẹ, bộ lông hung đẹp mịn như tơ, tia nhìn sắc xuyên
mắt đối phương. Nó đứng sững, im, không bỏ chạy. Cả hai bất động. Tôi không
biết sự sợ hãi, sự giận dữ, hay lòng yêu mến đã làm chúng tôi sững lại. Tôi
nhìn nó, nó nhìn tôi, không chớp mắt. Rồi nó biến mất, bất ngờ như khi mới đến,
đồng tử co lại. Vào giây phút ấy, tôi biết tôi đã bắt gặp sự hoang dã, bắt gặp
cái khác, sự thích thú, nỗi sợ hãi trước tương lai, lòng yêu cái đẹp, cảm giác
về kẻ thù, bạn hữu mà chúng ta thế nào cũng gặp trên đời. Tôi cảm thấy tình yêu
đối với một đất nước không phải là đất mẹ.
Thế còn bữa ăn sáng và trưa? Trong chúng tôi có người không
ăn sáng, nhưng khi bạn còn trẻ, bạn thấy đói lắm, muốn nhét nhiều thứ vào bụng.
Thế thì bạn phải tự lo liệu lấy. Những người bạn bản xứ mang vào lớp đủ thứ:
xúp nấu kiểu Ba Lan, thịt cừu hầm Tây Ban Nha, đầy váng mỡ, spaghetti của Ý, và
cơm, một loại ngũ cốc kinh khủng, hạt to bằng trái cóc, để nguội ba ngày, nhai
mỏi cả răng. Buổi sáng, và đôi khi trưa, hầu hết chúng tôi đói, không phải vì
không đủ thức ăn, mà vì không biết ăn. Thực phẩm thừa, hè nhau tuồn vào bao
rác, lẳng lặng giấu biến. Buổi tối nhiều đứa ăn bù lại, đâm tức bụng, không ngủ
được. Sau ba giờ chiều, hết học, rủ nhau đi làm thêm: phụ nữ vào tiệm giặt ủi,
con trai vào hiệu rửa xe, tiệm Mc Donald, đào giun đất, đi hái đào,
strawberries, mulberries, cranberries, blueberries, tùy tháng. Nhiều khi công việc
đồng áng sử dụng cả bọn trẻ mười ba, mười bốn tuổi, vì vậy chúng tôi giấu nhẹm
chuyện ấy, sau giờ học trốn trong bụi rậm sau nhà trường, chờ xe tải đến chở vù
đi.
Không biết cách nào để nói cho những đứa học cùng lớp biết
chúng tôi không ăn được thức ăn chúng mang tới. Áo quần nhà thờ cấp phát rộng
thùng thình. Tôi đi học với đôi ủng trắng to tướng, sở di trú Canada phát khi
đến phi trường. Nhiều đứa trẻ thích đi chân trần, vì không quen giày dép. May
chưa phải mùa đông, trời không lạnh. Chẳng ai để tâm chuyện áo quần, thức ăn,
trang điểm, những đứa trẻ và thanh niên mới lớn, lem luốc từ trại tạm cư, sống
trong niềm vui bất tận của tự do, sẽ nhớ năm tháng đầu tiên của họ về một điều
gì khác.
Tôi muốn nhớ mãi mùi cỏ dại khi băng qua nghĩa trang, tâm
trí đầy màu sắc của đào và lê, nhìn những cuộn khói bốc lên từ đống lửa người
thợ săn, sự bồi hồi nhẫn nại của cảm giác cứu chuộc, sự thăng bằng giữa công
việc thường ngày vụn vặt và sự thơ mộng, chúng bao phủ tôi, dẫn tôi đi. Tôi
muốn ghi nhớ cặp mắt đen của con chồn hoang hôm ấy, tôi muốn đi tìm ý nghĩa của
ngày khởi đầu như khi bạn cho tay vào hộp thư trước nhà một kẻ đi xa, đựng đầy
thư lẫn lá vụn.
Có một điều gì khó diễn tả trong vòng tay người bạn bản xứ
chào đón chúng tôi, những người trong nhà thờ, thiện nguyện viên, học sinh,
thầy giáo. Nơi ở của chúng tôi chất đầy những thùng đựng quần áo, mới và cũ,
những thùng đựng sách vở, mới và cũ, mang tới liền liền, và khi chúng được mở
ra, cái nào cũng tươi tắn thơm tho. Khi vào những lớp học cuối bậc trung học,
chúng tôi đứa nhỏ nhất mới mười lăm mười sáu, kẻ lớn nhất râu tóc đã bạc; có
những nhân vật trong lớp không bao giờ tôi quên. Một người thanh niên ngoài ba
mươi tuổi, anh K., bị bọn cướp biển dùng mái chèo đánh vào mặt và chân tay
nhiều lần, tra khảo để tìm vàng, vỡ xương mắt cá chân trái. Anh đi không vững, đôi khi phải dùng cái gậy,
nhưng vì đã quen, nên di chuyển cũng mau lẹ chẳng kém chúng tôi. Chướng mắt, cô
Lorie, cô giáo dạy tiếng Anh, dẫn anh đi gặp bác sĩ và tự bỏ tiền túi mua cho
anh một cái nạng gỗ chắc chắn. Từ đó nó không bao giờ rời khỏi tay anh.
Cái nạng gỗ ấy đã đi theo anh, vài năm sau, lúc anh chậm
chạp bước xuống giữa hai hàng ghế đầy người ngồi, một tay dẫn người phụ nữ
choàng khăn voan trắng, trong ngân vang tiếng đàn dương cầm của nhà thờ, giữa
hoa hồng, huệ, và dưới bóng những chùm confetti bay rợp phòng.
Nguyễn Đức Tùng