Tác giả: Thu An Trần Hữu Thuần |
Ngày
xưa, vào thời Vua Hùng, có nàng công chúa thứ mười được
vua yêu thương cưng chiều nhất, và được trăm họ cảm
phục. Vua yêu thương và trăm họ mến phục không chỉ vì
công chúa đẹp tuyệt trần, mà còn vì công chúa nhân từ
đức độ. Quả thực, không ai nhìn công chúa mà không
say đắm. Mắt công chúa long lanh như hai vì sao, nhưng lại
toát ra một vẻ dịu dàng khiến ai cũng muốn gần gủi.
Lời nói của công chịu dịu ngọt như mật ong. Công chúa
không bao giờ lớn tiếng với kẻ hầu người hạ, nóng
nảy nạt nộ, như các anh chị em hoàng tử công chúa khác
thường làm. Khi có người dưới tay lầm lỗi, công chúa
chỉ nhẹ nhàng chỉ bảo để điều đó không xẩy ra lần
nữa. Vì vậy, mọi người chung quanh công chúa đều đáp
lại bằng cách tận tụy làm theo ý muốn của công chúa,
không từ nan bất cứ điều gì dù khó khăn đến đâu.
Ngược lại, chẳng vì được chiều chuộng mà công chúa
đòi “hái trăng hái sao” như anh chị em mình.
Đức tính của
công chúa được các thần và nhất là Thần Bếp báo cáo
lên Vua Trời. Trong muôn ngàn công chúa hoàng tử trên khắp
cõi Người, Vua Trời chỉ chú ý đến Công chúa Mười
con của Vua Hùng là vì thế. Và Vua Trời nhận thấy quả
thực lời tâu của chư thần là đúng. Để chứng thực
lòng tốt của công chúa, gần Tết năm đó, Vua Trời cho
gọi một cô tiên đến dặn dò “như vậy, như vậy.”
Cô tiên “vâng dạ,” vội vàng đến cõi Người thực
hiện kế hoạch của Vua Trời.
Đã
đến ngày hai mươi ba tháng chạp. Nhà nhà khắp đất
nước cúng tiển Ông Táo về chầu Vua Trời, báo cáo lại
công việc từng nhà đã làm tốt làm xấu một năm qua.
Trời tháng chạp heo hắt lạnh, mưa như quất vào mặt
dân làm nông đang trân mình chịu đựng dưới ruộng nước
làm nốt công việc cuối năm chuẩn bị cho vụ chiêm.
Trong hoàng cung, Vua Hùng cùng các hoàng tử công chúa cũng
nghiêm chỉnh cử hành lễ tiển đưa Ông Táo, mong được
Ông Táo báo cáo tốt trước Vua Trời để được Vua Trời
đáp lại ân phúc mưa thuận gió hòa cho đất nước trong
năm tới. Lễ tất, Vua Hùng cho phân chia lộc cúng cho các
con để chuẩn bị mừng xuân mới. Cung nữ lão bộc lỉnh
kỉnh mang phẩm vật về. Công chúa Mười cũng bái từ
Vua Cha và các anh chị em, lững thững thả bước trên dãy
hành lang ngắm nhìn sắc trời đang chuyển mình sang xuân.
Gió vẫn lạnh, mưa vẫn lất phất rơi, nhưng đất trời
đang có dấu báo hiệu mùa xuân đang tới. Các khóm đào
khóm mai trong hoa viên, nụ đã đầy hé nở cho thấy sắc
hồng sắc vàng e ấp trong đài hoa xanh đang túm lại như
cố che chở nụ hoa khỏi mưa gió lạnh. Hoa hồng hoa hải
đường hoa lan hoa cúc cũng đang sẵn sàng bừng nở đón
chúa xuân. Tâm hồn Công chúa Mười cũng như đang phơi
phới theo hoa theo lá, sẵn sàng đón một mùa xuân mới.
Tuổi tròn trăng của công chúa cũng sắp đang nở rộ với
hoa bướm ngày xuân.
Về đến cung
riêng, Công chúa Mười mệt mỏi thay xiêm áo và lên
giường nằm nghỉ. Lễ vật Vua Cha ban cho, tì nữ đang
đem tất cả vào kho riêng. Trên bàn đặt trước giường
công chúa, một bình pha lê cắm một vài đóa hồng đóa
cúc. Trong hai góc phòng đối diện nhau, một cành đào và
một cành mai đang hé nụ đặt cạnh bàn viết của công
chúa. Trên bàn viết, một chồng sách, một nghiên mực
bằng bích ngọc và một lọ đựng các quản bút bằng
hồng ngọc. Bên cạnh chồng sách, một chồng giấy hoa
tiên đang chờ đợi công chúa viết các câu đối mừng
xuân để thị nữ trang trí trong phòng. Một tờ đặc
biệt sẽ dành riêng để công chúa khai bút đầu xuân vào
đêm giao thừa. Hương trầm thoảng ru công chúa vào
giấc ngủ. Trong giấc ngủ dịu dàng, công chúa mơ thấy
một cô tiên đem quà của Vua Trời đến thưởng công
chúa:
“Vua
Trời
nghe
báo
cáo
em
là
người
nhân
từ
hiền
thục
nên
sai
chị
đến
ân
thưởng
cho
em.
Chúc
em
một
năm
mới
đầy
lòng
nhân
ái.”
“Em
cám
tạ
Vua
Trời.
Cám
ơn
chị.
Em
sẽ
cố
gắng.”
Công
chúa Mười nghe văng vẳng cung nữ ngoài màn đánh thức
cô dậy:
“Bẩm
công
chúa,
đã
giờ
Tị.
Mời
công
chúa
tỉnh
giấc.”
Khác với các
hoàng tử công chúa khác, ngủ lúc nào thì ngủ, thức lúc
nào thì thức, Công chúa Mười đi ngủ và thức giấc
đúng giờ công chúa tự qui định cho mình. Giờ Tị là
giờ công chúa thức giấc, ngày nắng cũng như ngày mưa,
không bao giờ muộn hơn, chỉ sớm hơn khi có nghi lễ của
hoàng cung đòi buộc. Công chúa mỉm cười cám ơn người
cung nữ, ngồi dậy vươn vai, rồi xỏ chân vào dép vén
màn bước ra. Bỗng một ánh sáng lạ làm công chúa giật
mình:
“Cái
gì
kia?”
Chỉ
tay
lên
chiếc
bàn
chính
giữa
phòng
có
bình
hoa,
công
chúa
hỏi
người
cung
nữ.
Cung
nữ
nhìn
theo
ngón
tay
công
chúa,
chẳng
thấy
gì
nên
kinh
ngạc
hỏi
lại:
“Bẩm
công
chúa,
có
gì
đâu?”
“Sao
lại
không?
Có
cái
gì
sáng
chói
trên
bàn
kia.”
“Dạ,
em
đâu
thấy
gì?”
“Lạ
chưa,
em
không
thấy
thật
sao?”
“Dạ,
thật.
Em
chẳng
thấy
gì
khác
lạ
cả.”
“Em
không
thấy
cái
bánh
chưng
đang
tỏa
sáng
trên
bàn
sao?”
“Dạ,
quả
thực
em
chẳng
thấy
gì.”
Ngạc nhiên, công
chúa bước vội đến bàn nhìn kĩ. Trên bàn, một chiếc
bánh chưng vuông vức gói rất khéo bằng lá chuối xanh
đặt trên một chiếc đĩa ngọc bích. Chiếc bánh chưng
kì lạ tỏa ánh sáng chập chờn như thể nó là một viên
ngọc tỏa sáng. Khi công chúa đặt tay lên chiếc bánh,
người cung nữ cũng bỗng “ồ” lên:
“Em
thấy,
bây
giờ
em
thấy,
chiếc
bánh
chưng.”
“Thế
em
không
thấy
nó
tỏa
sáng
sao?”
“Không,
em
chỉ
thấy
chiếc
bánh
chưng
bình
thường.”
Thực lạ lùng,
người cung nữ chỉ thấy chiếc bánh khi công chúa đặt
tay lên, và không thấy đó là một chiếc bánh khác thường
đang tỏa sáng. Tại sao chỉ một mình công chúa có thể
thấy được chiếc bánh và ánh sáng? Khi công chúa nhấc
tay khỏi chiếc bánh, ánh sáng lung linh cũng tắt ngấm đi,
còn lại chiếc bánh chưng bình thường như muôn vàn chiếc
bánh chưng khác. Công chúa hỏi:
“Ai
đem
chiếc
bánh
chưng
vào
đây?
Có
phải
của
Vua
Cha
ban
cho
không?”
Người cung nữ
trả lời:
“Dạ,
em
không
biết
ai
đem
vào.”
Cô
quày
quả
đến
phòng
cất
giữ
phẩm
vật
vua
ban
kiểm
soát
lại.
Cung
nữ
giữ
kho
đếm
đi
đếm
lại,
không
thấy
thiếu
món
nào.
“Dạ,
thưa
công
chúa,
phẩm
vật
Hoàng
thượng
ban
cho
vẫn
còn
nguyên
trong
kho.”
“Thế
là
thế
nào?
Bánh
này
từ
đâu
đến?”
Tò mò, công chúa
bảo cung nữ mở chiếc bánh ra. Cung nữ tuân lệnh, nhưng
vừa đưa tay đụng đến chiếc bánh thì nó biến mất,
chỉ còn lại chiếc đĩa trống không. Cung nữ thất kinh
giựt tay ra, chiếc bánh vẫn nằm y nguyên trên đĩa. Thử
lại lần nữa, tay cung nữ vừa chạm đến là chiếc bánh
không còn. Kinh ngạc, công chúa bảo:
“Em
để
chị.”
Công chúa đích
thân bóc lá bánh; bên trong là một lớp nếp nhuốm màu
xanh của lá chuối. Cầm con dao nhỏ do cung nữa đưa lại,
công chúa cắt một góc bánh. Con dao ấn vào lớp cơm nếp
mềm mại dinh dính. Bỗng, lưỡi dao ngừng phắt lại
không chuyển động; công chúa cảm thấy chạm phải một
vật gì cứng. Ngạc nhiên, công chúa lách lưỡi dao qua
một bên, hé ra bên trong không phải nhân bánh như thường
lệ mà là một thứ gì vàng óng ả. Tách hẵn lớp nếp,
nhìn thấy một khối vàng, công chúa giật mình buông dao
rơi đánh keng xuống nền nhà:
“Bẩm,
công
chúa
có
sao
không?”
Công chúa sắc
mặt đầy kinh ngạc, hỏi lại cung nữ:
“Em
không
thấy
gì
bên
trong
bánh
sao?”
“Em
thấy
đậu
xanh
thịt
mỡ
thôi,
có
gì
khác
đâu?”
Nghe người cung
nữ nói, công chúa tưởng mình hoa mắt nhìn lầm. Nhưng
rõ ràng, khối vàng vẫn còn đó, chiếu ánh sáng lung
linh. Công chúa hỏi gặng:
“Có
thực
em
không
thấy
gì
khác
lạ
sao?”
Người cung nữ
lắc đầu quầy quậy:
“Công
chúa,
em
thực
không
thấy
gì
khác.”
Công chúa ngẩn
ngơ tự nhủ:
“Thế
là
thế
nào?
Chỉ
mình
ta
cắt
được
bánh,
chỉ
mình
ta
thấy
vàng
trong
bánh.
Bộ
ta
còn
mơ
ngủ
sao?”
Cung nữ nghe công
chúa lẩm bẩm không thành tiếng, tưởng công chúa mệt,
vội vàng đỡ công chúa lùi lại ngồi xuống ghế. Công
chúa vẫn lẩm nhẩm một mình:
“Chuyện
này
lạ
thực.
Ai
đem
bánh
đến
đây?
Sao
có
vàng
trong
bánh?
Vàng
đó,
ai
cho
ta
để
làm
gì?”
Suy nghĩ không tìm
được câu trả lời, công chúa dặn dò cung nữ:
“Em
đem
bánh
đặt
lên
bàn
cạnh
giường
ta
ngủ,
không
được
nói
chuyện
này
với
bất
cứ
ai,
kể
cả
Hoàng
thượng
và
Mẫu
hậu.
Nghe
chưa?”
“Dạ,
em
tuân
lệnh.
Em
không
dám
hé
môi
đâu.”
“Được
rồi.
Em
đi
nghỉ
đi,
có
gì
ta
gọi.”
Còn
lại một mình, Công chúa Mười trầm tư. Chiếc bánh từ
đâu đến đây? Tại sao trong bánh lại có vàng? Phải
chăng Vua Cha hoặc Mẫu hậu thử lòng ngay thẳng của ta?
Hay Trời thử lòng ta? Đêm qua ta nằm mơ thấy tiên nữ
nói Vua Trời khen ngợi ta. Lòng ta thế nào Trời đã biết,
hai bậc sinh thành ta đã biết, đâu cần phải thử thách.
Ta đâu phải người ham vàng bạc phú quí hư danh.
Công chúa đứng
dậy, vén màn bước vào phòng trong. Có thể đây chỉ là
một ảo giác, hoặc ma trêu quỉ ghẹo. Không, trên bàn
cạnh giường ngủ, chiếc bánh vẫn còn đó, khối vàng
vẫn óng ánh bên trong. Công chúa bóc hết lớp nếp ra.
Khối vàng vuông vức hiện ra sáng chói. Điều lạ là
khối vàng không dính một chút nếp bẩn nào, sạch sẽ
như đã được lau chùi cẩn thận.
“Ta
làm
gì
với
khối
vàng
này?”
Chợt nhớ lại,
cách đây mấy hôm, công chúa đang một mình dạo hoa viên
lúc trời xẩm tối, tình cờ nghe một người trong đám
lính canh phòng hậu cung của công chúa ngồi một mình
than vãn. Lặng yên lắng nghe, công chúa biết hoàn cảnh
của gia đình người lính. Mẹ anh ta đã quá vãng. Cha anh
ta già cả bệnh hoạn, lại sống cô đơn. Anh buồn rầu
chỉ mong hết thời đi lính về quê làm ruộng phụng sự
cha già. Công chúa thực sự mủi lòng khi nghe người lính
kể lể. Nhưng luật vua phép nước, người lính phải làm
tròn bổn phận đến mãn hạn kì. Công chúa dù muốn cũng
không can thiệp được.
“Hay
ta
đem
khối
vàng
này
cho
người
lính,
giúp
đỡ
cha
già
anh
ta?”
Nhìn lại chiếc
bánh trên bàn, công chúa càng ngạc nhiên hơn. Chiếc bánh
công chúa đã tách phần nếp để lộ khối vàng ra, giờ
gói lại y nguyên, với dây buộc đầy đủ như chưa hề
có ai đụng vào.
Công
chúa Mười cho người gọi người lính có cha già nghèo
khổ vào, ban cho chiếc bánh chưng, hai ngày phép, và ít
tiền đi đường. Công chúa dặn dò:
“Anh
đem
bánh
này
về
mừng
tuổi
cha
anh.”
Người lính ngạc
nhiên về đặc ân được hưởng. Anh nghĩ, bánh chưng
công chúa ban cho chắc khác với bánh chưng thôn quê của
anh:
“Bánh
này
chắc
sẽ
có
nhân
‘nem
công,
chả
phượng’.”
Anh tuy phục vụ
ở hoàng cung, nhưng nem công chả phượng thì cũng chỉ
nghe nói, vì chỉ dành cho gia tộc nhà vua. Anh cũng không
hiểu công chúa tại sao lại biết anh có cha già cô đơn
đau yếu. Có lẽ ai đó đã báo cáo lên công chúa. Nhưng
có bao giờ anh thổ lộ tâm sự gia đình với ai đâu?
“Đúng
là
mình
tốt
số
gặp
công
chúa
nhân
từ.”
*
* *
Cha
già của người lính đặt tấm bánh lên chiếc đĩa tốt
nhất của gia đình, đốt mấy nén nhang rồi gọi con:
“Vào
đây
con.
Cha
con
mình
lạy
tạ
ơn
vua
và
công
chúa.
Sau
rồi
lạy
tạ
tổ
tiên
ông
bà.”
Hai cha con hướng
về phía Nam, rồi hướng đến bàn thờ, sì sụp lạy.
Ông cụ lâm râm khấn vái:
“Bái
tạ
hoàng
ân.
Bái
tạ
ơn
phúc
tổ
tiên.”
Ông cụ khấn vái
tổ tiên gìn giữ con cụ lính tráng khỏi gặp nguy hiểm,
sớm trở về với gia đình. Cụ cũng xin cho mọi người
dòng tộc và khắp nơi gặp may mắn trong năm tới. Nhang
tàn, cụ sai con bưng đĩa bánh xuống, định cắt ra cùng
con trai hưởng lộc. Người lính khoát tay, thưa cha:
“Thưa
cha,
bánh
chưng
trong
hoàng
cung
con
không
thiếu.
Cha
để
bánh
cúng
giao
thừa
tối
mai.”
Dùng tiền của
công chúa ban cho và tiền lương, anh vội vàng ra chợ mua
sắm mứt bánh thịt thà, các thức cần thiết cho việc
tiếp khách mừng xuân để lại cho cha già. Anh cũng không
quên mua một cành mai và một vò rượu. Còn lại, anh đưa
hết cho cha già.
“Con
không
ở
lại
ăn
Tết
được
sao?”
“Dạ,
thưa
cha
không.
Sáng
mai
ba
mươi
con
phải
về
thôi.
Tối
giao
thừa
phiên
con
tuần
gác.
Công
chúa
không
gia
ân
thì
con
đâu
được
về
thăm
cha
giờ
này
đâu.”
Ông cụ gật gù:
“Đúng
rồi,
con
không
nên
phụ
hoàng
ân
và
công
chúa.”
Cha con tâm sự
suốt đêm. Sáng ba mươi, người lính quày quả trở về
hoàng cung. Ông cụ tiễn con ra đến đầu ngõ. Một mình
lững thững quay về, ông cụ buồn bực nghĩ đến cảnh
nhà đơn chiếc. Đứa cháu gọi cụ bằng ông bác thường
bầu bạn với cụ đã về nhà ăn Tết với cha mẹ. Ông
cụ còn lại một mình trong căn nhà vắng lặng.
Cúng
giáo thừa xong, cụ đem bánh xuống. Tay già run run, cụ
cắt dây lật lá, để lộ ra lớp nếp dẽo nhuốm màu lá
chuối xanh. Cầm con dao xếp têm trầu do người vợ quá
vãng của cụ để lại, cụ nhấn vào tấm bánh cắt một
góc. Con dao này đặc biệt với cụ và vợ cụ, vì chính
tay cụ đã đánh cho bà lúc cụ còn trẻ. Lưỡi dao bằng
thép tốt màu đen lưỡi mài sáng bóng, gập lại vào một
cái cán cũng bằng hai thanh thép hai bên, một đầu tán
vào chuôi dao làm khóa, một đầu nối lại với nhau chừa
khoảng trống ở giữa để lưỡi dao khép vào. Cụ nhớ
đôi mắt bà sáng lên khi cụ đưa con dao cho bà. Lúc đó
bà chừng trên hai mươi tuổi, mới về chung sống với
cụ. Cụ nhớ hàm răng nhuộm đen hạt huyền với đôi
môi đỏ thắm cốt trầu của bà. Cụ bỗng nhớ bà. Ai
nói cho dao là chia lìa, cụ không cho là đúng. Cụ và bà
chung sống với nhau mấy chục năm cho đến khi bà bỏ cụ
lại một mình:
“Bà
nhớ
phù
hộ
cho
con
trai
mình.”
Cụ ấn lưỡi
dao xuống. Con dao cắt ngọt xớt vào lớp nếp bỗng
khựng lại. Cụ dùng hết sức nhấn thêm chút nữa
nhưng con dao không xê xích thêm. Cụ hấp háy đôi mắt
già yếu, kinh ngạc. Tay cụ dù yếu nhưng cũng không đến
nổi cắt không được lớp nếp dẽo. Nhấn thêm chút
nữa, con dao bỗng lệch một chút qua một bên. Một thứ
gì vàng sáng lộ ra. Tưởng hoa mắt, ông cụ lật hẵn
lớp nếp ra: Bên trong, một khối vàng lóng lánh.
Suy nghĩ một
thoáng, ông đậy lớp nếp lên trên khối vàng, rồi lấp
lá chuối lại. Cụ nhìn lên bàn thờ tổ tiên, lẩm bẩm:
“Thưa
tiên
tổ,
tiên
tổ
đã
dạy
con
‘nghèo
cho
sạch,
rách
cho
thơm.’
Vàng
này
thực
hư
thế
nào,
con
chưa
biết
nên
con
không
dám
nhận.”
Rồi ông nhìn lên
bài vị bà cụ:
“Bà
ơi,
tôi
đem
vàng
này
cho
con
trả
lại
cho
công
chúa.
Bà
thấy
có
phải
không?”
Nhang cúng trên
bàn thờ vẫn chưa tàn. Ông cụ ngồi xuống bàn, rót tách
trà nhâm nhi, trán hằn lên suy nghĩ:
“Thế
là
thế
nào?
Sao
lại
có
vàng
trong
bánh?
Công
chúa
sao
lại
ban
cho
ta
chiếc
bánh
có
vàng?”
Ông cụ lại phân
vân:
“Hay
vàng
này
của
ai
dâng
kín
cho
công
chúa
mà
công
chúa
không
biết
nên
đưa
nhầm
cho
ta?”
Ông cụ thấy có
lí ở phần công chúa đưa nhầm cho ông cụ, nhưng không
đúng ở phần ai dâng kín cho công chúa. Dâng kín thì
chẳng khác nào hối lộ, mà ông cụ biết công chúa nổi
tiếng nhân từ, chẳng bao giờ ăn của đút lót của ai.
Bối rối, ông cụ bước đến cành mai, tỉa bỏ mấy
chiếc lá úa. Cành mai con cụ mua thực đẹp. Dáng như
chân hạc, cành như cánh phượng vươn ra. Cành toàn nụ,
một số nở vàng chào xuân vào đúng giờ giao thừa. Số
nhiều hơn toàn nụ e ấp, hứa hẹn hoa sẽ nở kéo dài
ít nữa cũng đến rằm. Vườn nhà cụ cũng có mấy gốc
mai già, nhưng không năm nào cụ cắt đem vào chưng vì
không muốn đụng chạm đến cây. Rồi cụ thẫn thờ
đứng ở cửa nhìn ra vườn. Đêm giao thừa, trời tối
đen như mực. Cụ chẳng nhìn thấy gì ngoài mấy vì sao
xa tít. Tiếng côn trùng ri rỉ, vô tư, chẳng chút xúc
động trước giờ phút linh thiêng của đêm năm cũ bước
sang năm mới. Cảnh nhà vắng lặng làm cụ cảm thấy kém
vui trong lòng. Thở dài, cụ bước lại vào trong, mắt lơ
đãng nhìn lên làn khói nhang đang vươn lên:
“Sáng
là
mồng
một,
đi
xa
bất
tiện.
Phải
đợi
đến
mồng
hai
mới
đi
gặp
con
ta
thôi.”
Bỗng cụ dụi
mắt, giật mình: Chiếc bánh chưng cụ đã lật lá, giờ
khép lại, đầy đủ dây buộc như chiếc bánh ban đầu.
Ông cụ nhìn kĩ sợ mắt già yếu lầm lẫn. Rõ ràng,
chiếc bánh vẫn y nguyên như lúc người con mới đem về.
“Thế
là
thế
nào?
Sao
lạ
lùng
vậy?”
Chẳng biết phải
nghĩ thế nào cho đúng, cụ buồn bực vái vái thinh không
rồi lên giường nằm. Trằn trọc lăn qua trở lại, cụ
mệt mỏi thiếp đi.
*
* *
Tên
trộm
rình
rập
nhà
cụ
già
cha
người
lính
từ
trước
giao
thừa.
Trời
sương
lạnh,
nó
co
ro
nép
mình
sau
bụi
cây
trong
vườn
nhà
cụ,
quấn
chặt
thêm
lớp
bao
tải
dùng
làm
áo
ấm.
Hắn
tính
toán
từ
lúc
nghe
tin
con
trai
ông
cụ
về
thăm
Tết
ông
cụ.
Lúc
đầu,
hắn
tưởng
cậu
con
sẽ
ở
lại
ăn
Tết.
Khi
nghe
tin
người
con
ra
đi
vào
sáng
ba
mươi,
hắn
nghĩ:
“Thằng
con
về,
thế
nào
cũng
đem
lương
về
cho
ông
già.
Nó
đi,
ông
già
một
mình.
Thuận
lợi
cho
mình
hết
sức.”
Hắn biết thế
nào ông cụ cũng mệt mỏi sau khi cúng giáo thừa. Cực
chẳng đã, hắn tính chuyện trộm cắp xóm giềng. Trước
đây, nếu có làm bậy, hắn thường sang làng khác, hoặc
ít nữa xóm khác. Lần này hắn túng quá làm càn. Đến
giờ phút này, cha con hắn vẫn chưa có gì bỏ bụng, nói
chi ba ngày Tết. Ngoài túp lều và rẻo đất quanh nhà,
hắn một cuốc đất cắm dùi cũng không có. Làm thuê làm
mướn, ngày nào xào ngày đó. Khéo ăn khéo co lắm mới
đủ dùng hàng ngày. Không may cho hắn, mùa công ruộng
này, hắn ngã bệnh. Thuốc men chỉ lẫn quẩn trong đám
cây nhà lá vườn, hắn vật vã cả nửa tháng trời. Hết
bệnh, sức còn yếu, lại cận tết, hắn chẳng còn làm
được gì. Vay mượn nơi nầy nơi kia vài lon gạo cầm
hơi, hắn đắp đủ qua ngày. Giờ Tết đến thì đành
chịu, nợ cũ chưa trả, ai dám cho hắn vay thêm. Người
cho hắn vay cũng nghèo rách tả tơi như hắn. Đám con hắn
quơ quào rau lang ngoài vườn, rau má trên hẽm tắt bờ
ruộng về nấu lên. Đến cả muối cũng không còn đủ
nêm cho mặn.
Thấy ông cụ
bước ra cửa nhìn ra vườn, hắn run cầm cập vì tưởng
đã bại lộ. Nhưng may cho hắn, ông cụ chỉ nhìn vẫn vơ
rồi bước vào. Lát sau, hắn thấy ông cửa đóng cửa
cài then. Đợi đèn trong nhà tắt hẵn, bóng tối bao trùm,
hắn lẻn đến ngồi co ro gần cửa sổ liếp nơi ông cụ
ngủ. Giường ngủ ông cụ nơi nào trong nhà, hắn chẳng
lạ lùng gì.
“Phải
đợi
nghe
ông
cụ
ngáy
đều
mới
được.”
Trời lạnh. Muỗi
vo ve. Hắn ngồi chờ tiếng ngáy của ông cụ tưởng như
vô tận. Gà gáy sáng là hắn phải bỏ cuộc, vì thoát
không kịp. Hắn bực mình nghe ông cụ cứ trở mình kẽo
kẹt trên chiếc chõng tre trong nhà. Đã thế ông cụ lẩm
bẩm những gì nghe không rõ. Ghé tai sát tấm vách đất
mỏng, hắn loáng thoáng nghe ông cụ nói đi nói lại mấy
tiếng “Thế là thế nào?” Hắn chẳng hiểu ông cụ
nói đến cái gì. Nhưng rồi, hắn nghe ông cụ ngáy. Tiếng
ngáy người già nghe khò khè, rồi thỉnh thoảng thở ra
bằng miệng nghe phì phò như tiếng ngậm nước súc miệng.
Biết đã đến lúc, hắn lấy trong túi áo ra một cục
sỏi đặt lên ngón tay kiểu bắn bi, bắn vào nhà. Viên
sỏi va vào đâu đó nghe lạch cạch rồi lăn lóc trên nền
nhà. Không động tĩnh. Ông cụ vẫn ngáy khò khè. Đợi
một chút, nó lấy ra một viên lớn hơn, bắn vào. Lại
lạch cách lạch cạch. Ông cụ vẫn ngáy đều. Nó khẽ
hắng giọng. Nếu ông cụ nghe tiếng hắng giọng, thế
nào cũng bật dậy hỏi “Ai đó?” Vẫn ngáy đều. Nhà
ông cụ một mình làm hắn bạo dạn hơn. Hắn chả dại
mon men đến nhà nhiều người, nhất là có đám trai
tráng.
Hắn khẽ nạy
cửa vào nhà bếp. Nhà bếp nào thường cửa cũng không
cài then chặt chẽ vì chẳng có gì đáng giá. Thức ăn
hoặc nồi đồng đều được đem lên nhà “trên” trước
khi đi ngủ. Hắn đến thổi nhẹ tro bếp: than hồng vẫn
còn được ủ bên dưới. Mò mẫm trong tay nãi quàng quanh
vai, hắn lấy ra tấm khăn đen bịt mặt bịt mũi, chỉ
chừa lại đôi mắt. Bịt để tránh bị nhận diện, và
còn để không hít phải khói nhang mê hắn sắp xông. Lấy
một cây nhang mê, kê vào than hồng cho bốc khói, hắn rón
rén nhét vào khe hở gần giường ông cụ ngủ. Làm thế
cho chắc ăn, dù biết ông cụ đã ngủ say. Loại nhang này
hắn được một chủ tiệm người Tàu trên chợ cấp
cho. Chủ tiệm này chuyên môn làm giàu bằng cách mua rẻ
lại bất cứ thứ gì hắn và bọn trộm cắp như hắn
xoáy được. Việc mua bán chỉ xẩy ra lúc tối lửa tắt
đèn. Chủ tiệm không bao giờ mua tại tiệm hoặc tại
nhà bọn hắn. Cuộc trao đổi thường diễn ra nơi này
nơi khác trong bụi trong lùm giữa đồng trống không người
qua lại.
Chỉ
chốc
lát,
hắn
nghe
tiếng
ông
cụ
hắt
hơi,
báo
hiệu
ông
cụ
đã
hít
phải
khói
mê.
Chờ
thêm
một
chút
cho
chắc
ăn,
hắn
bắt
đầu
cạy
cửa
từ
nhà
bếp
thông
lên
nhà
trên.
Ông
cụ
sống
một
mình
với
một
đứa
bé
nên
thận
trọng
thực
sự.
Cửa
ván
dày,
chận
lại
bằng
một
khúc
cây
từ
bên
cột
này
qua
cột
kia.
Hắn
biết,
chỉ
khoét
vách
mới
nâng
được
cây
chặn
này.
Vách
tre
trát
đất
không
quá
dày,
khoét
một
lỗ
hỗng
không
phải
là
chuyện
quá
khó.
Khoét
xong,
để
bảo
đảm
an
toàn,
hắn
lấy
một
khúc
củi
quấn
giẻ,
giả
dạng
một
cánh
tay
thọc
qua
lổ
khoét
“để
thử
lửa.”
Nếu
có
người
nghe
tiếng
khoét,
chờ
hắn
thò
tay
vào
rút
then,
chắc
chắn
sẽ
chộp
lấy
khúc
củi
vì
tưởng
đó
là
cánh
tay.
Thọc
cây
vào
hai
lần
thấy
an
toàn,
hắn
đưa
tay
khéo
léo
nâng
thanh
chặn
lên,
không
gây
tiếng
động.
Hắn
không
mở
cửa
toang
hoác
mà
chỉ
hé
vừa
đủ
lách
mình
vào,
cũng
không
đứng
lên
mà
ngồi
xổm,
thò
đầu
vào
quan
sát
trước,
sau
đó
mới
mò
mẫm
lần
vào
theo
thế
ngồi
như
vậy.
Kinh
nghiệm
cho
bọn
trộm
cắp
như
hắn
biết,
tiến
vào
theo
thế
ngối,
nếu
bị
phang
cây
sẽ
tránh
đòn
dễ
hơn
khi
đầu
cây
phang
đến
chạm
đất
chừa
lại
khoảng
trống.
Bên
trong
nhà
tối
om.
Hắn
ngồi
một
lúc
cho
quen
mắt,
rồi
tiến
dần
tới,
hai
tay
đưa
ra
trước
mặt
quờ
quạng
dò
xem
đụng
chạm
vào
đâu.
Xoay
người
một
chút,
hai
tay
hắn
chạm
vào
một
chõng
tre.
Kinh
nghiệm
cho
hắn
biết
đó
là
chõng
để
nồi
niêu.
Số
nồi
chão
đồng
ít
dùng
khác
chắc
chắn
cất
trong
buồng
trong.
Hắn
ngửi
thấy
mùi
thịt
heo
kho,
nhưng
không
vội.
Hắn
dò
dẫm
đi
tiếp
vào
buồng
trong,
nơi
cất
giữ
tiền
của
quí
giá.
Vơ
được
thứ
nhỏ,
hắn
cho
vào
tay
nãi,
thứ
lớn,
cột
quanh
thắt
lưng.
Đụng
một
cái
rương
có
khóa,
hắn
lấy
cây
sắt
nhỏ
nhẹ
nhàng
bẫy
ổ
khóa.
Thọc
tay
vào,
hắn
cảm
thấy
sự
mềm
mại
của
áo
xống,
khăn
đóng,
giày
hạ.
Đây
là
áo
quần
“vía”
của
ông
cụ,
mỗi
năm
chỉ
mặc
đôi
lần
giỗ
Tết
lễ
lạc
hội
hè.
Hắn
ôm
gọn
cuộn
lại
cho
vào
tay
nãi.
Mò
tiếp,
hắn
chạm
đến
các
đồng
tiền
được
xâu
lại,
mỗi
xâu
chắc
là
một
quan.
Không
cần
đếm,
hắn
cho
tiếp
vào
tay
nãi.
Không
thấy
vàng
bạc
vòng
kiềng
gì
khác.
Ông
cụ
không
giàu
lắm.
Hắn
tiếp
tục
bò
dần
đến
bàn
thờ.
Chắc
chắn
trên
bàn
thờ
phải
có
bộ
lư
hương
chân
đèn
bằng
đồng.
Hắn
nhẹ
nhàng
đứng
lên,
cho
tất
cả
vào
tay
nãi.
Sẵn
thấy
chiếc
bánh
chưng
trên
đĩa,
hắn
cho
nốt
vào
theo.
Xong
xuôi,
biết
chẳng
còn
thứ
gì
đáng
giá,
hắn
mò
ra
chõng
để
thức
ăn,
sờ
soạng
lấy
số
bánh
tét
cho
vào
tay
nãi,
đổ
nồi
cơm
nấu
trong
nồi
đất
vào
nồi
thịt
kho
nấu
trong
nồi
đồng,
rồi
lẫn
ra
ngoài.
Đeo
lủng
củng
các
thứ,
hai
tay
bận
bưng
nồi
thịt,
hắn
lúng
túng
để
cái
gì
đó
đụng
vào
cột
nhà
kêu
“xoảng.”
Thất
kinh
hồn
vía,
hắn
ngồi
thu
lu
trong
bóng
tối
sẵn
sàng
phản
ứng
nếu
ông
cụ
thức
giấc.
May
cho
hắn,
hương
mê
làm
ông
cụ
vẫn
ngáy
như
sấm.
Yên
tâm,
hắn
đi
lùi
ra
cửa.
Nghề
nghiệp
dạy
nó
đi
ra
phải
thụt
lùi
để
đối
phó
kịp
thời
khi
cần.
Xuống
bếp
là
an
toàn,
hắn
khép
cửa
nhà
trên
lại
để
trì
hoãn
việc
bị
phát
hiện,
rồi
nhẹ
nhàng
thoát
ra
ngoài,
vội
vàng
quay
về.
Các
con hắn đã ngủ say. Hắn đem nồi cơm thịt đổ vào
chiếc nồi đất lớn nhất của nó, để số bánh tét
lên giàn bếp. Chiếc bánh chưng, hắn để trên chiếc bàn
xiêu vẹo trước khám thờ, định để cúng tổ tiên hắn
trước đã. Xong xuôi, hắn đem tất cả đồ trộm được
ra hè sau đào hố chôn giữa bụi chuối, rồi san đất,
lấp lá chuối khô lại lên trên xóa dấu vết.
Hắn múc nước
rửa sạch bùn đất bám chân tay mặt mũi. Vào nhà, hắn
vớt cơm trong nồi thịt ra chia vào các cái tô sứt mẻ
cho hai con nó, bỏ cho mỗi đứa mấy miếng thịt heo kho
tàu thơm phức. Còn lại, hắn cho hết cơm vào tô của
hắn, rồi đánh thức con hắn dậy ăn. Các con hắn đã
quen với việc được ăn nửa đêm nửa hôm như thế này
nên không hề thắc mắc. Chúng dụi mắt, rồi ngửi thấy
mùi cơm thịt nên sà xuống ăn vội ăn vàng như sợ ai
tranh mất. Chúng ăn như không kịp nuốt, không kịp thở.
Chẳng mấy chốc, tô đứa nào đứa nấy sạch như chùi,
một tí mỡ bám cũng không còn. Ông cụ ăn một mình nên
cơm nấu chẳng nhiều nhặn gì. Hắn xuống bếp lấy một
chiếc bánh tét lên, dùng giây lạt buộc bánh cắt thành
các khoanh mỏng cho vào tô hai đứa con. Thấy chúng liếc
nhìn nồi thịt, hắn gắp cho mỗi đứa hai cục thịt
nữa. Hai đứa nhồm nhoàm ăn hết phần chúng. Nếu có ai
quan sát sẽ nhìn thấy đôi mắt của hắn—của một
thằng ăn trộm—ánh lên, phản chiếu ánh đèn tù mù,
nét hiền từ của người cha yêu thương và xót xa cho con
cái đói khổ của mình. Hai đứa con no kềnh, xuống múc
nước lạnh trong lu lên uống rồi quay vào lăn ra ngủ
tiếp.
Hắn ngồi một
mình, ngáp dài, rồi sực nhớ đến chiếc bánh chưng. Sửa
lại quần áo cho tạm tươm tất, hắn bỏ chiếc bánh
chưng lên chiếc đĩa sờn mép còn tốt nhất của hắn,
rồi đặt đĩa lên khám thờ có bài vị tổ tiên cha mẹ
hắn. Không rượu, hắn lấy cái li nhỏ cáu bẩn xuống
lu múc một li nước, cũng đặt lên khám thờ. Không nhang
đèn, hắn tự trách mình đã không lấy luôn bó nhang.
Chắp hai tay lại, hắn khấn vái tổ tiên cha mẹ hắn,
xin phù hộ cho cha con hắn năm mới có ăn có mặc, cho hắn
có sức khỏe làm lụng nuôi con, khỏi phải ăn trộm ăn
cắp đã không hay không tốt mà còn nguy hiểm.
Van vái xong, hắn
ngồi thừ suy nghĩ rồi gục xuống bàn ngủ thiếp đi. Gà
gáy canh một, hắn giật mình thức giấc. Chiếc bánh
chưng trên khám thờ nhắc hắn lại những gì hắn làm
tối qua. Nghĩ rất nhanh, hắn hạ chiếc bánh xuống.
“Để
đó,
ai
mà
thấy
được
thì
biết
ngay
hắn
là
tên
trộm.”
Hắn nghĩ thế vì
nhìn qua, chiếc bánh được gói thực khéo, không một
chiếc bánh nào trong vùng có thể sánh bằng. Hắn lật
lớp lá, lấy dao cắt chiếc bánh ra làm đôi để phi
tang. Lưỡi dao đi ngọt xớt qua lớp nếp dẽo, tách chiếc
bánh ra làm hai phần. Bỗng, hắn vụt con dao xuống đất,
la lên hoảng hốt:
“Trời
đất
ơi!”
Từ trong chiếc
bánh, lúc nhúc lủ khủ dòi bọ bò ra rớt xuống lớp lá.
Hắn dụi mắt nhìn kĩ, vẫn toàn dòi bọ. Không còn hồn
vía, hắn túm lá gói chiếc bánh lại, nhanh chân đem vất
vào chính giữa bụi chuối sau hè nhà. Hắn lau chùi hết
dấu vết có thể sót lại trên bàn dưới đất, kì cọ
tay thật sạch. May cho hắn, trời chưa sáng hẵn để có
ai có thể nhìn thấy. Thêm nữa, mồng một Tết, chẳng
ai bước ra khỏi nhà vào sáng sớm, kiêng cữ xông đất
động đất.
“Thế
là
thế
nào?
Chẳng
lẽ
ông
cụ
cúng
bánh
đã
sinh
dòi?”
Băn khoăn mãi đến
trưa, không kiềm chế được tò mò, hắn ra sau hè liếc
nhìn vào bụi chuối: Chiếc bánh chưng không còn trong đó,
cả lá cũng không. Cho là chó mèo đã ăn hết bánh thì lá
chuối ít nhiều phải còn tại chỗ. Chẳng một vết
tích, như chưa hề có một chiếc bánh bị vứt vào trong
đó.
Gà
gáy sáng. Thuốc mê tan. Ông cụ mệt mỏi thức giấc, lấy
làm lạ tại sao hôm nay ông ngủ đến trời sáng hẵn như
vậy. Thường tuổi già, ông cụ chỉ ngủ một giấc đầu
hôm, thức dậy nằm chập chờn rồi trở dậy lúc trời
còn mờ tối:
“Có
lẽ
tại
tối
qua
giao
thừa
ta
thức
khuya
quá,”
ông
cụ
tự
giải
thích.
Đứng dậy, bước
xuống nhà bếp định súc miệng rửa mặt như mọi ngày,
ông cụ bỗng cảm thấy có một cái gì khác lạ trống
vắng. Nhìn kĩ lại, nồi thịt trên chõng đã biến mất.
Nhìn đến cửa, vách đã bị khoét, thanh ngang chận cửa
đã hạ xuống, cửa chỉ khép hờ. Bây giờ ông mới định
thần cảm thấy có một mùi hương lạ phảng phất trong
nhà. Ông cụ la lên:
“Ăn
trộm!
Ăn
trộm!”
Sáng mồng một,
mọi người kiêng cữ ở nguyên trong nhà nên nghe tiếng
ông cụ la lối cũng chỉ thập thò nhìn ra. Lát sau đám
cháu chắt cụ nghe tin kéo đến. Cụ chỉ cho đám cháu
chắt thấy chỗ vách bị khoét, phần còn lại của nhang
mê, việc cụ mất hết mọi thứ có giá trong nhà. Cụ
không đã động gì đến chiếc bánh chưng vì biết khó
giải thích việc trong bánh có vàng.
Mọi thứ mất đi
đều tiếc, nhưng cụ tiếc nhất là chiếc bánh chưng kì
diệu. Tiếc không phải vì mất số vàng mà vì vì cụ
biết ăn nói làm sao nếu quả thực công chúa thử lòng
cha con cụ. Công chúa liệu có tin được cụ bị mất
trộm không? Công chúa tất nghĩ cha con cụ đều là phường
tham lam. Cụ buồn bã uất ức trong lòng. Khi cháu chắt và
người đến thăm hỏi đã quay về, cụ đóng cửa cài
then, không buồn đi đâu, chẳng buồn tiếp ai. Suốt ngày
cụ chẳng ăn uống, cứ ngồi lên nằm xuống không biết
tính làm sao. Cụ rót chút rượu ra nhâm nhi. Rượu lúc
bụng trống làm cụ ngầy ngật, rồi nằm vật xuống
thiếp đi.
Khi cụ thức dậy,
trời đã tối hẵn. Chỗ vách khoét, cháu chắt cụ đã
cài trét lại lúc ban sáng. Cụ đứng dậy thận trọng rà
soát lại cửa lớn cửa nhỏ, lẩm bẩm:
“Còn
gì
cho
chúng
lấy
nữa
đâu
mà
sợ.”
Cụ đập hai cục
đá lửa cành cạch vào nhau cho đến khi nhúm bùi nhùi bắt
lửa, thổi phù lên rồi đốt ngọn đèn dầu phụng treo
trên đầu cột. Ánh sáng chập chờn không đủ soi nét
chỉ tay. Chân đèn đã mất nhưng còn hộp đèn cầy, cụ
xuống bếp lấy hai chiếc đĩa nhỏ tạm làm chân đèn,
đốt hai cây đèn cầy cắm lên đĩa đặt trên bàn thờ.
Ánh đèn cầy sáng hơn đèn dầu phụng, soi rõ bàn thờ.
Lấy mấy thẻ nhang, cụ đốt lên, vẫy cho tắt, rồi vái
tổ tiên, vái bà cụ, cắm vào bát nhang. Dù sao cụ không
thể để bàn thờ hương khói lạnh lẽo, nhất là trong
ngày Tết. Bỗng cụ giật mình: Chiếc đĩa trống không
lúc ban sáng, giờ đây chiếc bánh chưng lại nằm trong
đó.
“Chẳng
lẽ
có
ai
đem
bánh
cho
lúc
ta
ngủ?
Mà
cách
gói
khéo
đó,
không
thể
có
được
ở
vùng
ta.”
Nghi ngờ, cụ
khấn vái tổ tiên rồi hạ bánh xuống, lật lá, cắt
bánh ra. Con dao lần này lại chạm vào lớp cứng mà cụ
thấy rõ là khối vàng.
“Tạ
ơn
trời
đất.”
Cụ gấp lá lại,
để đĩa bánh lên bàn thờ. Cụ không biết chiếc bánh
có sẽ gói lại y nguyên như đã xẩy ra lần trước
không. Rồi cụ băn khoăn:
“Hay
lúc
sáng
mình
lo
lắng
vì
mất
của
nên
không
nhìn
kĩ,
chiếc
bánh
vẫn
nằm
đó
không
bị
trộm
chăng?”
Nhưng cụ thấy
không đúng. Nếu có chiếc bánh trên bàn thờ, đám cháu
cụ đã phát hiện báo cho cụ biết. Mệt mỏi, ông cụ
không thèm suy nghĩ nữa, chỉ mong mau sáng đến gặp con
trai đưa bánh vào nộp lại cho công chúa.
*
* *
Người
lính được công chúa cho phép vào gặp. Anh đem chiếc
bánh nộp lại, bẩm báo về khối vàng bên trong, và việc
chiếc bánh kì diệu tự gói lại và bị trộm lấy mất
đi tự động quay về. Cô chúa đã tự mắt chứng kiến
việc bánh tự gói lại nên tin ngay mọi chuyện. Công chúa
và cha con người lính chắc còn kinh ngạc hơn nếu biết
chuyện tên trộm chỉ nhìn thấy dòi bọ khi mở bánh ra.
“Cha
con
anh
thành
thực,
ta
có
lời
khen.
Thực
tình,
ta
quên
cho
anh
biết
trong
đó
có
vàng
mà
ta
muốn
biếu
cha
anh.”
Người lính mừng
rỡ bái tạ công chúa, quày quả đem vàng ra cho cha anh
đang chờ anh ngoài quán trọ. Ông cụ hướng về hoàng
cung bái tạ công chúa nhân từ, rồi bảo con:
“Đây
là
hoàng
ân
của
công
chúa,
cha
con
ta
không
thể
chỉ
hưởng
một
mình.
Cha
sẽ
chia
cho
các
người
nghèo
khó
trong
xóm
ta,
con
nghĩ
sao?”
“Dạ,
cha
nghĩ
rất
đúng.”
Ông cụ giữ lại
cho ông hai phần, còn lại bán thành tiền chia cho các
người nghèo trong xóm. Ông cụ cũng chia cả cho người mà
cụ không biết đã lấy trộm của cải nhà cụ. Hắn
lúng ta lúng túng không biết có nên thú tội hay không:
“Dạ,
thưa
cụ,
cháu….”
Ông cụ nhìn
quanh cảnh nhà hắn, đám con cái hắn, thấy quả nghèo
nàn hơn cụ tưởng tượng. Cụ chậc lưỡi, thấy hắn
ngần ngừ tưởng muốn xin thêm nên bảo hắn:
“Tôi
thêm
cho
anh
chút
ít
nữa
đây.
Thấy
cảnh
nhà
anh
cô
quạnh
thực.”
Hắn chìa tay ra
nhận tiền, nước mắt chảy ròng ròng, lòng ân hận về
điều ác hắn đã gây ra cho người giờ đây đang đối
xử tốt với hắn. Ông cụ chẳng mảy may nghi ngờ, an ủi
hắn:
“Anh
dùng
tiền
lo
cho
các
cháu.
Chúc
anh
Năm
Mới
bình
an.”
Tác
giả:
Trần
Hữu
Thuần
jbtranthuan@hotmail.com