Lê Duy Đoàn
I. Những chuyện bên lề:
1. Cô gái Huế hỏi: Bài
"Giọng Quảng - Gần thương xa nhớ" của anh, em
đã đọc nhiều lần, nhưng lần nầy đọc lại vẫn bị
cuốn hút vào câu chuyện! Giọng Quảng thì gần thương
xa nhớ, còn giọng Huế thì ra răng anh hè? Anh lậm tình
cô gái Quảng rứa chơ có lậm tình với O gái Huế mô
không? Có phải như người ta thường nói "Huế đi để
mà nhớ, chứ không phải ở để mà ..."!
Chàng trai Huế trả lời:
“Giọng Huế thì gần cảm, xa thương” em à. Ở gần
nghe giọng Huế thấy thấm, có thấm mới cảm thương
… nàng. Trai gái Huế thì "xa càng nhớ, ở càng
thương" giống như anh với em ri nì!
Cô gái Huế nói: “Anh
nói rứa cho vừa lòng em thôi, chứ giọng Bắc sắc sảo,
trau chuốt, chuẩn mực, giọng nói như rót mật vào tai,
giọng Nam ngọt như mía lùi như tai được rót mật răng
anh không nói cảm nói thương mà cảm và thương chi “giọng
Huế trọ trẹ của miềng” hở anh?
Chàng trai hơi lúng túng
một chút trước câu hỏi ngược bất ngờ của cô gái,
rồi cũng tìm được câu trả lời: “Người dân ở xứ
nào cũng yêu mến giọng quê của mình. Dù là người Bắc,
người Nam hay người miền Trung, cứ nghe giọng nói quê
mình là thấy động lòng. Người Quảng động lòng giọng
Quảng, người Huế động lòng giọng Huế. Giọng quê
qua miệng nói, qua tai nghe rồi đi qua tim. Giọng quê theo
máu đi đến toàn thân, len lỏi qua từng tế bào rồi đi
đến trú ngụ trong tâm hồn của mỗi con người.
Giọng quê miền nào cũng
được người dân miền đó xem là vốn quý. Vốn quý đó
được truyền thừa, bảo lưu và có tính chất bảo thủ.
Như thế, giọng nói riêng của từng vùng miền không bị
đồng hóa, mai một, hòa lẫn, hòa tan vào một giọng nói
miền khác.
Mình là người Huế nên
giọng Huế được nghe, được nói, được thấm trong máu
thịt từ thuở nằm nôi. Trong gia đình và ngoài xã hội,
người Huế được tưới tẩm tâm hồn bằng giọng Huế.
Lớn lên đi học, giao tiếp cũng nghe cũng nói giọng Huế.
Yêu cô gái Huế cũng nghe thỏ thẻ giọng Huế, cũng tỏ
tình bằng giọng Huế… Như rứa, người Huế cảm giọng
Huế là chuyện bình thường như mối liên hệ giữa sự
sống và hơi thở. Thiếu hơi thở thì sự sống
ngất ngư, thiếu chất giọng quê mình thì như người
thiếu đói, què quặt. Đôi khi người ta ơ thờ với
chuyện thở và sự sống đến khi tắt nghẻn hơi thở, mạch
nguồn sự sống cũng đảo điên, khi đó người ta mới
giật mình. Ví như người Huế xa quê chợt nghe lại giọng
Huế đâu đó, cảm thấy thương giọng nói của
quê mình, lòng bỗng dưng ấm áp như được nối lại với
mạch nguồn xứ Huế, rồi chợt bồi hồi xúc cảm thân
thương.”
Em đọc mấy câu thơ
trong bài “Mơ tình xứ Huế” của nhà thơ Trần Dzạ Lữ
thì thấy liền:
Cứ mỗi lần nghe giọng
của em
Anh lại nhớ vô cùng giọng mạ
Cố đô mình trong trái tim mô lạ
Răng thẩn thờ như thuở mới quen?
Anh lại nhớ vô cùng giọng mạ
Cố đô mình trong trái tim mô lạ
Răng thẩn thờ như thuở mới quen?
Câu đầu “nghe giọng
của em” là gần cảm. Câu hai “nhớ vô
cùng giọng mạ” là xa thương đó em à.
Cô gái nghe chàng trai nói
về “giọng Huế của miềng” có “gần
cảm, xa thương” ra chiều cảm khái… trái tim non
chợt rung lên nhè nhẹ, hơi loạn nhịp!
Mẫu đồi thoại ở trên
là của một cô gái và một chàng trai Huế chay, cả hai
cũng xấp xỉ…bảy mươi tuổi rồi!!
ĐI TÌM NHÀNH HOA THẠCH THẢO, TÁC GIẢ: LÊ DUY ĐOÀN, NXB THANH NIÊN, 2014. |
Trí Hải sau này cưới
được một cô vợ người Huế, cũng là họa sĩ tốt
nghiệp trường Cao đẳng mỹ thuật Huế. Cô gái Huế
này- một O Tôn Nữ, là cô giáo dạy môn hội họa, bạn
thân cùng dạy một trường với em gái anh ấy. Gia đình
Hải rất quý cô dâu này vì ngoài những phẩm chất tốt
đẹp của một người đẹp xứ Huế thuộc con nhà gia
giáo, nề nếp, với cốt cách sang trọng quý phái, tánh
nhu mì, biết ăn biết ở, nội trợ đảm đang còn góp
cho không khí gia đình họ một giọng Huế thanh tao dịu
dàng nữa. Còn Hải thì hàng ngày được gần gũi giọng
nói êm tai nghe như tiếng chim hót ríu ra ríu rít và đã
biết cô ấy nói chi …khỏi đoán mò!
3. Năm
1973, hai vợ chồng chúng tôi lên Đà Lạt lần đầu. Một
buổi sáng, chúng tôi vào chợ Đà Lạt. Chợ vắng người.
Chúng tôi đến một quầy bán trái cây, hỏi thăm một
người bà con trong họ Lê. Bà xã tôi vừa nói đúng một
câu: “Bác ơi, bác cho con hỏi thăm, bác có biết Mụ
Bưởi cũng bán trái cây ở chợ ni, ngồi chỗ mô không?”.
Không trả lời trực tiếp vào câu hỏi, bác ấy hỏi
ngay, không một chút ngần ngừ: “Cháu là dân Kế Môn
phải không?” .
Thật là lạ, bà xã tôi
theo mẹ “lên Dinh” từ hồi nhỏ xíu, lúc mới ba, bốn
tuổi, giọng nói nghe ra giọng Dinh rõ ràng, vậy mà một
người xa lạ chưa hề quen biết vẫn nhận ra giọng nói
quê gốc Kế Môn của bà xã tôi dù giọng quê đó chỉ
còn sót lại chút xíu. Tài thật.
4. Nhà văn Võ Hương
An viết bài “Tiếng Huế-một ngoại ngữ” có
đoạn: Trong bài viết Áo Rộng Khăn Vành, Tiếng Sông
Hương 1990, Túy Hồng có một nhận xét rất đúng: "Giọng
Huế không phải là giọng nói trước đám đông, mà có
thể chỉ là một giọng nói trong phòng khách.” Nói trước
đám đông thì dở nhưng rỉ rả trong phòng khách thì rất
dễ lọt tai.
5. Giới thiệu CD nhạc
Trịnh Công Sơn “Một cõi đi về” Nguyễn Hạnh Hoài Vy
viết vào tháng12/2001(trích bài viết) đề cập đến một
người “thuyết văn” bằng giọng Huế ở Paris. …Đó
là giọng nói của anh Cao Huy Thuần… Thuyết văn, là dùng
lời nói văn chương để làm sáng tỏ tính chất của mỗi
bài nhạc. Mà lời nhạc Trịnh Công Sơn, như mọi người
đã đồng ý, là những lời thơ –là nghệ thuật sử
dụng ngôn ngữ, cho nên sự làm tỏ sáng lời nhạc là
công việc cần thiết. Qua đó, người nghe mới hiểu hết
cái ý sâu sắc của cách dùng lời.
Người thuyết văn có
giọng nói của miền sông Hương, núi Ngự. Nói tới giọng
Huế, người ta hay nói là giọng "trọ trẹ". Có
thể mượn ý của nhạc sĩ Phạm Duy để mô tả đó
là một "âm vực cạn hẹp", do "tiếng
trầm và bỗng không quá cách biệt" trong quảng âm
Ngũ Cung . Đó là thứ giọng nói "bình thản!".
Trong sự "bình thản" ấy, giọng Huế có thể xoay chiều: dõng dạc như tướng quân giữa chốn sa trường hay tiếng thầm thì bên tai người yêu dấu.
Giọng "thuyết văn" của anh Cao Huy Thuần lơ lửng giữa hai cực nói trên. Cho nên, người nghe đã gặp phải cái cứng cỏi thứ gỗ quý của rừng nhiệt đới, xen với cái mượt mà sâu lắng của giòng sông Hương….
Trong sự "bình thản" ấy, giọng Huế có thể xoay chiều: dõng dạc như tướng quân giữa chốn sa trường hay tiếng thầm thì bên tai người yêu dấu.
Giọng "thuyết văn" của anh Cao Huy Thuần lơ lửng giữa hai cực nói trên. Cho nên, người nghe đã gặp phải cái cứng cỏi thứ gỗ quý của rừng nhiệt đới, xen với cái mượt mà sâu lắng của giòng sông Hương….
6.Thời gian vừa qua, việc Biên tập viên Anh Phương dẫn chương trình thời sự bằng giọng Huế trên VTV (Đài truyền hình VN) đã tạo nên nhiều ý kiến trái chiều của khán giả.
Anh Phương, sinh năm 1987,
đã tốt nghiệp Đại học kinh tế Huế và nhận bằng
thạc sỹ Kinh tế năm 2012. Cô vừa được chuyển ra công
tác ở Đài truyền hình trung ương tại Hà nội
một thời gian.
Ngoài vẻ đẹp dịu dàng,
nữ tính, Anh Phương còn là một người đa tài. Cô biết
chơi nhiều nhạc cụ như: piano, organ… Đặc biệt, cô có
thể chơi được nhiều môn thể thao như bơi lội, tennis,
bóng bàn, khiêu vũ, taekwondo.
Ngay sau khi chương trình
thời sự được phát sóng, nhiều ý kiến tranh luận được
đưa ra. Bên cạnh một số ít những ý kiến cho rằng,
chương trình thời sự của đài quốc gia cần phải sử
dụng giọng chuẩn Hà Nội thì đa phần những ý kiến
khác đều tỏ ra thích thú với sự xuất hiện của một
BTV nữ nói giọng Huế….
Theo Thuỳ Phương (Gia
đình & Xã hội)
7. Nhận xét chung:
<Trích bài viết Các đặc-điểm ngữ-âm của tiếng Huế
của tác giảVương-Hữu-Lễ- Thông tin Khoa học và Công
nghệ, số 1, năm 199>
Tóm lại, các đặc điểm
nổi bật của tiếng Huế là:
- Những khoảng cách phân biệt các thanh điệu là nhỏ bé, cao độ thì không bổng quá cũng chẳng trầm quá, khiến cho giọng nói nghe đều đều đơn điệu.
- Sự chuyển hoá âm lại có xu hướng thu hẹp độ mở, làm giảm đi âm lượng khiến cho độ vang sút kém…
- Các phụ âm cuối lợi (?) được thay bằng các âm mạc (?) khiến cho giọng nói không bị dằn mạnh.
Tất cả những đặc điểm đó tạo ra một hiệu quả âm học chung là “nhỏ nhẹ”, một từ khá chân xác thường được người ở các vùng khác dùng để miêu tả tiếng Huế theo sự cảm nhận bình thường của họ.
Phải chăng đặc trưng “nhỏ nhẹ” đó một phần nào là do hoàn cảnh xã hội đặc biệt của Huế. Phú Xuân xưa đã từng là thủ phủ của các chúa Nguyễn trong khoảng 200 năm, và Huế là kinh đô của một triều đại phong kiến lớn nhất trong lịch sử nước ta từ đầu thế kỷ XIX. Ở đây, con vua cháu chúa rất nhiều, quan lại lớn nhỏ cũng không ít, chắc chắn cách sinh hoạt của tầng lớp quý tộc thượng lưu đó – trong đó có cách ăn nói của họ – đã gây một ảnh hưởng đáng kể..
- Những khoảng cách phân biệt các thanh điệu là nhỏ bé, cao độ thì không bổng quá cũng chẳng trầm quá, khiến cho giọng nói nghe đều đều đơn điệu.
- Sự chuyển hoá âm lại có xu hướng thu hẹp độ mở, làm giảm đi âm lượng khiến cho độ vang sút kém…
- Các phụ âm cuối lợi (?) được thay bằng các âm mạc (?) khiến cho giọng nói không bị dằn mạnh.
Tất cả những đặc điểm đó tạo ra một hiệu quả âm học chung là “nhỏ nhẹ”, một từ khá chân xác thường được người ở các vùng khác dùng để miêu tả tiếng Huế theo sự cảm nhận bình thường của họ.
Phải chăng đặc trưng “nhỏ nhẹ” đó một phần nào là do hoàn cảnh xã hội đặc biệt của Huế. Phú Xuân xưa đã từng là thủ phủ của các chúa Nguyễn trong khoảng 200 năm, và Huế là kinh đô của một triều đại phong kiến lớn nhất trong lịch sử nước ta từ đầu thế kỷ XIX. Ở đây, con vua cháu chúa rất nhiều, quan lại lớn nhỏ cũng không ít, chắc chắn cách sinh hoạt của tầng lớp quý tộc thượng lưu đó – trong đó có cách ăn nói của họ – đã gây một ảnh hưởng đáng kể..
…Hơn nữa, từ đầu thế
kỷ XIX, tiếng Huế chịu tác động rất mạnh của phương
ngữ Nam. Vua Gia Long, người sáng lập ra nhà Nguyễn, đã
sống ở miền Nam suốt cả cuộc đời lưu lạc của
mình; vả lại, “từ đời Minh Mạng trở xuống, các bà
vợ vua phần lớn là người Nam, vì các công thần hầu
hết là người Nam cho nên đã dâng con lên cho vua” và
chính vua “Minh Mạng sinh trưởng ở miền Nam, cho rằng
giọng nam nhẹ nhàng dễ nghe, cho nên vua bắt ai nấy phải
nói giọng lơ lớ nửa Nam nửa Huế” vì thế “trong Đại
Nội không được nói hoàn toàn theo giọng Huế mà phải
nói giọng Phường Đúc [*], nghĩa là giọng Huế
pha giọng Nam”.
(*)Chú thích về
giọng phường Đúc: “Phường Đúc là khu quần cư
tập trung các người thợ đúc đồng tài giỏi do triều
đình tuyển từ Bắc vào hoặc trong Nam ra. Họ là tác giả
của chuông chùa Linh Mụ, Cửu vị Thần Công và Cửu Đỉnh
ở Huế. Những sản phẩm của họ dãi nắng, dầm mưa,
trải bao tuế nguyệt đến nay vẫn chẳng chút nứt rạn
hay có tì vết gì. Họ mang theo gia đình ra làm ăn sinh
sống lâu ngày ở Huế nên hòa đồng ngôn ngữ với dân
địa phương. Dân Phường Đúc không nói rặt một giọng
nào mà pha trộn nửa nọ, nửa kia. Các cung phi trong Nội
phải bắt chước giọng Phường Đúc, nghĩa là vừa nói
nửa Trung, nửa Nam, ai không tuân thì bị tội. Tại sao
lại có hiện tượng này? Kể cũng khó hiểu. Và lệnh
này có từ đời nào? Có người đưa ra giả thuyết: có
lẽ chuyện này xuất phát từ thời bà Từ Dũ vốn là
một phụ nữ Nam Bộ, con gái của Đại thần Phạm Đăng
Hưng, người Gia Định, bà được phong Nghi Thiên Chương
Hoàng hậu, lấy vua Thiệu Trị, đứng đầu bộ phận
“hậu cần” của Hoàng đế, có nhiều quyền uy đối
với các cung phi khắp ba cung, sáu viện. Có lẽ và muốn
những người dưới tay mình phải dùng giọng nói pha âm
sắc Nam Bộ để trao đổi cho dễ hiểu chăng, bởi vì
người Tân Hòa-Gia Định nghe giọng Huế “đặt sệt”
có thể không hiểu mô tê chi cả.”
II. Các đặc điểm
của giọng Huế:
1. Phân vùng địa lý các
chất giọng Huế:
Theo các trích dẫn bài
viết nhiều tác giả và các mẫu chuyện cá nhân ở phần
trên, chúng ta ghi nhận các nhận xét về giọng Huế trái
chiều như sau:
- Nhỏ
nhẹ, nhẹ nhàng hay dõng dạc, hùng biện.
- Trọ
trẹ hay dễ nghe.
- Mượt
mà sâu lắng hay nặng nề, thô ráp.
- Giọng
phòng khách hay giọng trước đám đông.
- Giọng
dịu dàng hay cứng cỏi.
- Giọng
dỡ hay giọng hay.
- Giọng
nặng hay giọng nhẹ.
Qua từng cặp đối lập
ở trên người ta thường chỉ nói đến một vế trong
cặp đối lập đó. Chê thì nói giọng Huế trọ trẹ,
dỡ, nặng, giọng phòng khách. Khen thì nói giọng Huế nhỏ
nhẹ, nhẹ nhàng, dễ nghe, hùng biện.
Trong những cặp đối lập
đó, thực tế giọng Huế đều có đủ mọi tính chất.
Điều đó hầu như đúng với mọi phương ngữ nếu chúng
ta so sánh giọng từng vùng miền trong địa phương đó.
Giọng người ở nơi thị tứ thường nhẹ hơn giọng
người ở nơi vùng ven. Giọng người ven thành phố nhẹ
hơn giọng người ở vùng trung du, núi non hay ven biển,
ven đầm phá.
Ờ Huế có giọng
Dinh (đất kinh đô, nơi thị tứ), giọng miền biển,
giọng miền ven núi hay miền núi và giọng trung gian.
a. Giọng Dinh hay giọng
phố là chất giọng của người Huế - sinh ra và lớn lên
ở ngay trong thành phố Huế . Giọng Dinh nói chung là nhỏ
nhẹ, nhẹ nhàng, thanh tao.
Giọng Dinh có những tính
chất đó do các "vĩ thanh" - âm đuôi, ở chữ
cuối cùng trong câu nói - chỉ có độ kéo dài chừng
mực. Nó không co lại và cứng dần như giọng người dân
về hướng Bắc Thừa Thiên, tiếp giáp Quảng
Trị...
Mặt khác, giọng Dinh cũng
không có lắm vĩ thanh dài, mềm mại như giọng người
dân phía Nam Thừa Thiên.
Nhiều bài viết cho rằng
giọng Huế “nhỏ nhẹ”. Có lẽ người viết đang nói
đến giọng Dinh của Huế. Họ gắn chất giọng của
người Huế với nguồn nước sông và mạch nước giếng,
có lẽ họ quan sát hai bên bờ sông Hương, sông An Cựu,
sông Bồ, sông Truồi... có nhiều người đàn ông lịch
lãm, nhiều con gái đẹp, nhu mì, nói năng nhẹ nhàng, chậm
rãi, chừng mực rồi vội vã kết luận như thế? Thật
ra, các phủ đệ của các vương tôn, quan lại và các gia
đình gia thế, người danh giá, người giàu có của Huế
phần nhiều nằm dọc hai bờ sông. Những vùng nổi tiếng
bên bờ sông có nhiều phù đệ và biệt thự vườn cảnh
là Kim Long, Nguyệt Biều, Xuân Hòa, Phú Mộng, An Cựu, Vỹ
Dạ. Những khu vườn này hoặc là được ban, được cấp
hay người ta bỏ số tiền lớn ra mua sắm.
Nếp sống, nếp nghĩ, lối
ăn nói, cách ứng xữ hàng ngày của họ được người
dân xung quanh ngưỡng mộ. Cung cách khoan thai, đường bệ,
sang trọng; phong thái ung dung, hòa nhã; ứng xử, giao
tiếp bặt thiệp và lời ăn tiếng nói nhỏ nhẹ, nhẹ
nhàng, từ tốn là vốn quý của văn hóa Huế, con người
Huế mà những nếp nhà gia phong, giáo dục con cái học
tập và giữ gìn. Những điều tốt đẹp đó có khả
năng cảm hóa và lan tỏa như “hữu xạ tự nhiên hương”
trong xã hội, dần dần thành những mực thước trong đời
sống của người Huế.
Tôn giáo nói chung và Đạo
Phật nói riêng cũng có vai trò tích cực trong việc hình
thành nhân cách và hun đúc những phẩm chất tốt đẹp
của con người Huế trong đó có giọng nói nhỏ nhẹ,
hiền hòa.
b. Giọng
người Huế ở ven biển, ven đầm phá thường có những
vĩ thanh trĩu xuống khác thường. Nhất là những từ có
thanh bổng, mang "dấu sắc"... Những từ nầy khi
nói ra, người ven biển thường có thanh âm thiên về "dấu
nặng" hơn là "dấu sắc". Ví dụ, khi nói mắm
ruốc thì họ phát âm thành mặm ruộc .
Giọng Huế ở đây thường
trầm thấp hơn cách phát âm của chất giọng Dinh. Đại
đa số người dân các miền biển Thừa Thiên, nhất là
Trung Thừa Thiên đều có chất giọng đặc biệt - vĩ
thanh trầm - như thế.
c. Chất giọng
người dân ven núi hay miền núi nói chung có điểm
nghịch với chất giọng của người dân ở miền biển.
Thay vì các phần vĩ thanh - âm cuối, chữ cuối câu - đột
ngột hạ xuống thấp so với tự nhiên, thì bây giờ chất
giọng của họ lại đột ngột được nâng cao, rất
bổng. Ngoài ra, vĩ thanh "bổng" ấy rất thường
được "nhấn" y như một "trọng âm" cuối
vần và ngay cả cuối câu. Với chất giọng nầy, câu nói
của người ven núi hay miền núi gần như một tiếng hô
thán, gây ấn tượng thân tình hơn, sôi nổi hơn.
d. Giọng trung gian
giữa giọng Dinh và hai chất giọng của người ven biển
và người ven núi: Những làng xóm ở quanh thành phồ Huế,
người dân nói giọng nặng hơn dân thành phố nói giọng
Dinh một chút. Càng xa thành phố, giọng Huế của người
dân quê càng nặng dần.
Ở Thừa thiên, có làng
Mỹ Lợi nằm phía bên kia sông Vinh Mỹ (thuộc xã Vinh Mỹ,
huyện Phú Lộc), trên một vùng chắn bãi ngang của biển
Vinh Mỹ. Người dân ở đây nói giọng Quảng Nam, nên
không xếp được vào giọng nào trong bốn giọng Huế nói
trên (dựa ý bài “Chất giọng Huế có mấy sắc thái” của
Trần Hạ Tháp)
2. Những thành tố
của giọng Dinh: Giọng Dinh hình thành dựa trên các yếu
tố sau: giọng nhỏ nhẹ, khoan hòa, từ tốn (chậm rãi
nhưng không rề rà), câu chữ rõ ràng, mạch lạc, khúc
chiết, khẩu âm đi theo đúng cao độ của các dấu bình
thanh, sắc, huyền, nặng và hỏi ngã (thường không phân
biệt rõ trong giọng Huế). Giọng Dinh thường hướng tới
lời nói và câu chữ theo chuẩn mực tiếng Việt trong
giọng Nam, giọng Bắc hiện hành.
Giọng Dinh thường gắn
liền với xuất thân, nơi ăn chốn ở và tầng lớp trong
xã hội của mỗi người.
Những gia đình quyền
quý, gia thế, những gia đình giàu có, giới trí thức
thường gọt dũa giọng nói của mình để có giọng Dinh.
Giọng Dinh cũng có ảnh hưởng rõ rệt trên những người
quê nhưng học tập và làm việc trong thành phố Huế.
Nghĩa là họ làm cho giọng nhẹ hơn bằng cách làm mềm
chữ (lối nói phụ âm cuối chữ T thành C, N thành NG, ví
dụ: hát thành hác, cắt thành cắc, hoan lạc thành hoang
lạc…) và gạt đi những phương ngữ Huế quê rặt, để
câu nói nhẹ nhàng hơn, thanh cảnh hơn.
3. Những thành tố
của giọng biển, giọng núi: Môi trường âm thanh và
điều kiện sống có ảnh hưởng không nhỏ tới giọng
nói. Người vùng biển suốt ngày vật lộn với sóng to,
gió lớn không thể có giọng nói nhỏ nhẹ,nhẹ nhàng của
các cô gái chốn lầu son. Người miền quê quanh năm tất
bật làm ăn, tâm lực dồn vào cuộc mưu sinh trong nắng
lửa và tiếng gào réo của những trận lụt lội triền
miên, thì ngôn ngữ hằng ngày mục đích chính là truyền
đạt thông tin nên thường ngắn gọn có khi dẫn tới cộc
lốc. Hoàn cảnh ấy kéo dài hàng trăm, hàng ngàn năm thì
mới hình thành một chất giọng trầm thô, mộc mạc khó
lẫn với những vùng quê khác. (Nhà thơ Vương Trọng)
Quê mùa thường đi với
cục mịch. Giọng biển, giọng núi có thể nói nôm na là
“Giọng quê rặt”. Tính chất nặng, thô, khan, vang, đục
là những thành tố của giọng quê rặt.
Hãy xem một đoạn diễu
giọng nói sau đây: (người có giọng quê rặt Bình Trị
Thiên hầu như dùng từ quê rặt giống nhau)
“Bựa ni tui
mới ra đàng, chộ hai mụ sương triêng độộc độộc
đập chắc, tụi chộ rứa can ra bơ mụ tê vác đòn
triêng hoại dầm vô trôốc cúi, tính lọi cẳng eng nờ”
Dịch: Hôm nay tôi
mới ra đường đã thấy hai bà gánh chum vại đánh nhau,
thấy vậy nên hòa giải, không ngờ một bà cầm đòn
gánh đánh vào đầu gối suýt nữa gãy chân anh ơi.
Câu trên được dẫn
chứng cho vui nhưng trong thực tế, khi sử dụng ngôn ngữ
giao tiếp, người dân các vùng quê xa thành phố còn dùng
nhiều từ, nhiều phương thổ ngữ mà ngay chính những
người Huế còn không hiểu được, huống hồ là người
ngoài xứ.
Có người nói vui “Tiếng
Huế- một ngoại ngữ” có lẽ họ nói về chất giọng
quê rặt và trong câu nói sử dụng nhiều phương ngữ quê
mùa, cục mịch nên người xứ khác nghe không hiểu được.
Đi song hành, vẫn có một tiếng Huế-giọng Dinh trong trẻo,
nhẹ nhàng, khoan hòa, dễ nghe.
III.Kết: Tôi lấy
bốn câu Kiều của thi hào Nguyễn Du tả sắc thái thanh
âm tiếng đàn của Thúy Kiều khi đàn cho Kim Trọng nghe
trong buổi đầu tương ngộ làm lời kết.
………….
481. "Trong như tiếng
hạc bay qua
Ðục như tiếng suối mới xa nửa vời
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài
485 'Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa"
Ðục như tiếng suối mới xa nửa vời
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài
485 'Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa"
………..
Giọng Huế tùy vùng mà
có giọng trong, giọng đục và có giọng khoan, giọng
nhặt.
Có giọng Huế Dinh nhỏ
nhẹ, thanh tao, dễ nghe, có giọng Huế quê rặt nặng,
thô, khan, vang, đục khó nghe.
Nhìn chung, giọng nói của
người Huế không dõng dạc, hùng biện. Điều đó do âm
vực hẹp nên giọng nói nghe đều đều, ngang ngang và ngữ
điệu không diễn cảm, uyển chuyển theo ngữ trạng và
ngữ cảnh như giọng Bắc, giọng Nam.
Đã có rất nhiều người
mê tiếng nói Dạ Lan, sau này mê giọng đọc của Bích
Huyền trên làn sóng điện dù chẳng thấy người, nhưng
chưa nghe có một giọng đọc hay giọng nói nào nổi tiếng
của người Huế khiến nhiều người say nghe.
Thực tế, như nhận xét
của nhiều người, khi nói giọng Dinh, giọng người đàn
ông Huế nhỏ nhẹ, nhẹ nhàng và giọng con gái Huế thì
nhỏ nhẹ thanh tao. Chất giọng như thế cọng với sự
trầm mặc của đàn ông Huế và sự dịu dàng e ấp của
con gái Huế đã tạo một nét riêng của người Huế.
Dù trong, dù đục, dù
khoan, dù nhặt, dù Dinh hay quê rặt, giọng Huế vẫn là
giọng nói được nhiều người yêu mến. Có chê là giọng
trọ trẹ, giọng nặng thì cũng là cách nói thương, nói
mến. Có khen giọng nhỏ nhẹ thanh tao thì cũng là lời
khen thật tình.
Không kể giọng Huế,
phần nhiều người ta thương mến Huế là thương mến cả
cảnh quan hữu tình với một bề dày văn hóa đậm chất
nhân văn và con người Huế với nhiều tố chất đậm
nét nhân bản.
Giọng Huế- Gần cảm, xa
thương.
Lê Duy Đoàn,
Sài Gòn, 11/11/2014