Chúc Mừng Năm Mới

Kính chúc quý bạn năm mới vạn sự an lành

Sunday, December 2, 2012

CHẾ LAN VIÊN VÀ NHỮNG ĐIỀU GỬI LẠI Phạm Xuân Dũng

Chế Lan Viên
                 
       Trong số những nhà thơ nổi tiếng hàng đầu của nền thơ hiện đại Việt Nam, Chế Lan Viên là một hiện tượng đặc biệt, một tài thơ xuất chúng đồng hành dài lâu với thời gian và công chúng yêu văn học. Ông nổi tiếng rất sớm, từ độ hoa niên và nỗ lực hết mình trong cuộc chạy đường trường cách tân thơ cho đến những năm tháng cuối đời mình với một nội lực văn chương đáng kính. Sau khi ông đã qua đời, "Di cảo thơ" của Chế Lan Viên vẫn khiến mọi người kinh ngạc và khâm phục. Ông đã mở rông biên độ cảm xúc, phóng hoạt trong tư duy thơ và dân chủ hóa trong hình thức thể hiện.

       Trong di cảo thơ, bạn đọc cảm nhận một Chế Lan Viên mới mẻ hơn trong tư duy và cảm luận về dân tộc. Vẫn một Chế Lan Viên nghĩ nhiều, luôn triết luận và trăn trở. Bài thơ này gợi ta nhớ đến một thi phẩm lừng danh của ông trước đó "Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng". Nhưng nếu trong bài thơ của những ngày vệ quốc khói lửa cảm hứng chủ đạo là sử thi anh hùng ca với giọng thơ hào sảng thì trong di cảo dân tộc hiện ra trong một suy tư lắng lại, chiêm nghiệm từ góc nhìn đời thường và dân dã hơn:
                     
       Dân tộc bốn ngàn năm bị cái dạ dày làm khổ
       Buôn đầu chợ , bán cuối chợ
       Khổ trên sông và khổ bên sông       
       Lụt sông Thương, sông Mã, sông Hồng ...
       Bo bo hạt gạo bằng trời của mình
       Tấm mẵn của mình
       Vơ bèo vạt tép mà tồn tại 
       Do đó phải nhờ Bụt, nhờ Trờ, nhờ Chúa, nhờ Nàng Tiên cứu rỗi. 
      Khi sống ăn cơm
      Chết nhờ húp cháo lá đa mà tồn tại

      Cảm hứng dân tộc ở đây được khởi đầu từ miếng ăn, cái đói, một chuyện thiết thân và giản dị nhưng rất đỗi lớn lao mà nhiều khi vì nạn xâm lăng, giặc giã hoặc vì những mục tiêu cao xa nào đó mà chúng ta buộc phải quên đi hoặc buộc phải bỏ qua cho dù bao người không muốn thế. Sau chuyện ăn là văn hóa dân tộc. Giữ được hồn vía cha ông là giữ được chính mình. Giữ nước trong khi thế nước chênh vênh thật là điều nan giải nhưng không thể không làm:

      Dân tộc quá nhiều kẻ thù
      Nên phải làm lành
      Dân tộc Thiền tông
      Hết giặc rồi, đổ căm thù xuống bể, xuống sông

      Cũng với tư duy chính luận, nhà thơ nói lại những điều có thể mình đã nói bằng cách nghĩ lại những điều mình đã nghĩ:

      Hoan hô! Hoan hô! Hoan hô!
      Đả đảo! Đả đảo! Đả đảo!
      Kiên quyết! Kiên quyết! Kiên quyết!
      Thành công! Thành công! Thành công!
      Tại sao lại phải ba lần ?
      Chúng ta bỗng dưng thành vẹt!
      Nếu một lần thì sao?
      Nếu hai lần, tôi muốn dừng suy nghĩ
      Hoặc có thể tôi không hô lần nào
      Mà tôi ủng hộ đến hồng cầu sau chót của tôi
      Thế nhưng hoan hô thì  phải là nắm tay và hô đến ba lần
      Đả đảo cũng như thế nốt
      Ai bày ra trước ?
      Luật nào ?
      Thế nhưng hễ hoan hô thì ba lần ta phải hoan hô
      Người người làm như vậy
      Cứ mỗi ngày như thế
      Mà ý các câu thơ mòn dần
      Mà ta không thấy lộc cây ra tán lá
      Mà ta với hồn thơ thành xa lạ
      Dần dần ...
                                                                     (Ba lần)

       Ông nêu lên một niêm luật của đời sống xã hội bất thành văn, từ đó mong được độc lập trong tư duy và hành động cho mỗi cá thể con người. Đó chính là quá trình tự ý thức của mỗi cá nhân, nhất là đối với những ai được mệnh danh là trí thức. Đó cũng chính là quá trình đi lên của xã hội, dân chủ hóa trong tư duy và đương nhiên cả dân chủ hóa trong thơ. Điều này được thể hiện rõ nét trong di cảo thơ Chế Lan Viên.

       Nhìn nhận lại những điều mình hoặc cộng đồng đã nghĩ, mở rộng đề tài và hình thức thể hiện, thoải mái trong liên tưởng và cách dùng từ, chơi chữ và đưa nhiều danh từ khoa học, khẩu ngữ, đưa đối thoại, tranh biện vào thơ, cố gắng phản chiếu tính phức tạp và vô cùng  của vạn vật qua lăng kính nhà thơ bằng lối tư duy và cách viết độc đáo, đó chính là nét mới của di cảo thơ. Bài thơ "Ngày của Chúa" cũng là một sáng tác tiêu biểu của di cảo thơ:

     Người ta bảo Chúa sáng tạo vạn vật trong sáu ngày
     Và Chủ nhật thì Chúa nghỉ
     Bậy nào! Chủ nhật là ngày chúng ta bận rộn nhất
     Thế thì hình ảnh của chúng ta là Chúa đấy, Người có rảnh rang đâu
     Ngày ấy Chúa phủ định những gì làm được trong trong sáu ngày qua
     Cách phủ định tốt nhất là đẻ ra Thời gian
     Thời gian sẽ giết chết tất cả những gì Người sinh trưởng
     Cũng có thuyết ngày ấy Người tiếp tục sáng tạo
     Đã là Chúa có bao giờ được nghỉ
     Những ngày ấy Người tạo ra các điều vô ích
     Tạo ra bóng người, mùi hương, tiếng vang, kỷ niệm... 
     Tạo ra ảo ảnh, phù vân, ngựa vằn, đốm trên mình nai, vằn trên lưng hổ ...
     Chúa tạo ra ngày, ra đêm
    ...  Là tạo ra ngày ấy đấy
    Qủy tha ma bắt hết đi
    Vì chính những cái ấy làm cho ta khổ.

    Thơ trong di cảo đầy ắp những tư tưởng, chân lý và không thiếu những nghịch lý, tất nhiên theo lối thơ của Chế Lan Viên. Chẳng hạn như chân lý đời sống thống nhất với chân lý nghệ thuật nhưng tuy một mà hai, chưa kể đến những điều mới mẻ, xa lạ, thậm chí bất khả tri, bất khả giải trước hiểu biết vô cùng hữu hạn của con người. "Sao Kim" và nhiều bài thơ khác  đã bàn đến điều này. Dĩ nhiên hạt nhân vẫn chuyện thế thái nhân tình.

      Di cảo thơ Chế Lan Viên còn nhiều điều phải tim hiểu, luận bàn vì sự hiện đại, mới mẻ, độc đáo và thú vị. Hy vọng sẽ được tiếp tục điều này vào một dịp khác.       


PHẠM XUÂN DŨNG          
                           
                                 
Website counter
READ MORE - CHẾ LAN VIÊN VÀ NHỮNG ĐIỀU GỬI LẠI Phạm Xuân Dũng

HỎI... - thơ Sông Thu




Hỏi trăng mỗi buổi bay qua
Có vô tình biết
Tình ta với nàng
Không người lỡ bước sang ngang
Không người tình phụ
Mà loan phím chùng !
Tình yêu hơn cả nước sông
Đam mê hơn cả
Triều dâng
Sóng trào !
Mà sao
Trăng hỡi
Vì đâu
Chia ly vĩnh viễn
Niềm đau ngút ngàn !...

Hỏi mây từ núi bay sang
Có qua bên ấy
Nơi nàng ngủ yên
Nhắn rằng : " Tôi vẫn yêu em "
Xin mây sà xuống
Chăn êm đắp dùm
Thay tôi sưởi ấm đêm đông
Vòng tay tôi vẫn
Ấm nồng hơi em....

Gió ơi
Đem đến hằng đêm
Nụ hôn tôi gởi
Trọn niềm yêu thương
Thì thầm giai điệu vấn vương
Niềm vui hoan lạc
Nỗi buồn chia phôi !

Hỏi sao lấp lánh trên trời
Sáng sao bằng được
Tình tôi với nàng ?

Hỏi dòng suối mát trên ngàn
Có trong như mắt
Của nàng
Nhìn tôi ?
Có êm như tiếng nàng cười
Vấn vương quấn quýt trọn đời trong tôi.
                   
                          Sông Thu
songthu195@yahoo.com.vn
READ MORE - HỎI... - thơ Sông Thu

Lê Đăng Mành giới thiệu thơ mời họa của Thầy Lê Chí Phóng

Lê Đăng Mành và thầy Lê Chí Phóng



Lâu lắm rồi tôi mới có dịp ghé thăm Thầy Lê Chí Phóng - nhà thơ Thanh Phong, cựu giáo sư Trường Nguyễn Hoàng Quảng Trị - ở làng Câu Nhi, Hải Tân, Hải Lăng, Quảng Trị, trước là để vấn an sức khỏe của Thầy Cô, sau để nhờ Thầy giải đáp một vài chuyện văn học. Tôi được Thầy giới thiệu những tác phẩm văn thơ của thi hữu và học trò về mừng thượng thọ của Thầy Cô...

Nhân dịp này, Thầy tặng một tôi một sáng tác mới của Thầy và nhờ đăng lên blog để mời quý thi hữu cùng họa.       
                                           
Xin trân trọng giới thiệu bài mời họa của Nhà thơ Thanh Phong.

Lê Đăng Mành

                 
 Thủ bút của Thầy LÊ CHÍ PHÓNG

                              
THƠ MỜI HỌA:


CHÚC MỪNG XUÂN QUÍ TỴ 2013

  
TỴ đến, Thìn đi vận khí trời
Chúc mừng thuyền VIỆT thuận ra khơi
Mừng đời sống thọ, vui chân đạo *
Chúc đạo an vui, sống đẹp đời
Mong bạn an khang chào lộc biếc
Cầu tôi hạnh phúc đón mầm tươi
Trăm năm ước hẹn đang vươn tới
Trổi dậy bình minh sáng tuyệt vời.

                Thanh Phong - Lê Chí Phóng
                                                                 Câu Nhi, Hải Tân

*chân thật, ngay thẳng.




MỪNG XUÂN TÂN TỴ
Trần Ngộ kính họa

Vũ thuận hòa phong cũng tại trời
Trăng vàng nhuộm sóng khắp trùng khơi
Rồng về bể rộng lo tròn đạo
Rắn đến non cao tính lẻ đời
Trúc chúc chào xuân nghìn lá thắm
Mai mừng đón tết vạn hoa tươi
Cầu mong quốc phú gia cường thịnh
Năm mới bắc nam sáng tỏ vời.

READ MORE - Lê Đăng Mành giới thiệu thơ mời họa của Thầy Lê Chí Phóng

GẶP LẠI TRONG MƠ - thơ Ngọc Tình




Duyên cũ tan theo gió
Em thầm đau và nhớ
Thổn thức lẫn ngẹn ngào
Tình đầu đâu dễ bỏ

Đôi lần muốn tìm nhau
Nên chốn xưa về lại
Phố xưa, người xa ngái
Liễu thầm thì ru mưa

Bao kỷ niệm ngày xưa  
Chông chênh cùng năm tháng
Chỗ ngồi xưa lạnh vắng
Qua mấy mùa chia xa

Đời như gió thoảng qua
Nhưng tình anh còn đó
Như giấc mơ để ngỏ
Mộng cũ với người xưa.

TN 4-9-2012
Ngọc Tình
nguyentinhtn@yahoo.com.vn
READ MORE - GẶP LẠI TRONG MƠ - thơ Ngọc Tình

THẰNG BÉ KHỜ KHẠO...DỄ THƯƠNG - Lê Duy Đoàn

Họa sĩ Lê Duy Đoàn tại một phòng triển làm tranh của ông.


Đây là những câu chuyện tự trào vì thằng bé khờ khạo… mà dễ thương chính là tôi khoảng năm mươi mấy năm về trước. Tôi hay kể chuyện này khi nói chuyện vui với bạn bè cùng trang lứa hay kể cho các con tôi nghe. Nghe chuyện, ai cũng cười và nghĩ rằng sao lại có một thằng bé khờ khạo quá như vậy.

(Trong câu chuyện xin lưu ý người đọc, những lời xưng hô theo đúng ngữ cảnh vào thời điểm thập niên 50, lúc tôi còn bé xíu nên những từ như “thằng”, ”hắn” v.v. từ là bạn bè gọi nhau thân thương khi còn nhỏ - những người đó bây giờ đã trên dưới 70 tuổi rồi, có người đã ra thiên cổ - tôi hoàn toàn không có ý mạo phạm, bất kính).

1. Thằng, con:

Mẹ tôi kể rằng, khi chưa đầy 2 tuổi, tôi đã biết nói rành rọt. Ông ngoại tôi họ Trương, người làng Vỹ Dạ, có khu vườn rộng bên ngoài cửa Hữu. Mẹ tôi làm dâu họ Lê Duy ở xóm Đông An (xóm guốc), làng An Ninh Hạ.

Về thăm ngoại, mẹ tôi phải bồng tôi đi bộ và qua 2 bến đò: bến đò làng Hạ và bến đò kẻ Vạn.

Vừa bước chân lên đò, mẹ tôi gặp một người bạn. Bà ấy nhìn rồi hỏi mẹ tôi: “Con à ?”. Mẹ tôi trả lời ngắn gọn nhưng lễ phép : “Dạ, con”. Đợi cho người bạn của mẹ tôi đi khuất, tôi mới thỏ thẻ hỏi mẹ: “Mạ,thằng chơ răng mạ nói là con ?” ( Mẹ, con là “thằng” mà sao mẹ nói là “con”).

2. Khờ khạo nên thành Trạng Cóc.

Năm 1956, tôi lên 10, chuẩn bị lên lớp Nhất trường Tiểu học Vạn Xuân. Năm đó có hội chợ và triển lãm nông nghiệp ở Phú văn lâu, thành phố Huế. Hội chợ này tổ chức vào dịp hè.

Chính quyền Ngô đình Diệm lúc đó muốn tổ chức những ngày hội vui vẻ để mừng kết quả bầu cử. Cuộc trưng cầu dân ý ngày 23-10-1955 có kết quả sắp xếp trước theo đúng kịch bản “xanh vô giỏ, đỏ vô bì” và gian lận phiếu của chính quyền Ông Diệm nhằm phế truất Ông Bảo Đại và đưa Ông Ngô đình Diệm lên cầm quyền ở Miền Nam.

Tôi có người bạn chí thân học chung một lớp tên là Lê văn Khâm. Mặc dù học chung một lớp nhưng Khâm học giỏi, khôn ngoan, lanh lợi hơn tôi nhiếu.

Nhà chúng tôi lúc đó ở bên cạnh nhau. Tôi ở nhà số 1 kiệt 1 đường Quốc lộ 1 (sau này là 77 Thống Nhất), phường Phú thạnh, Huế. Nhà Khâm giữa nhà tôi và cái quán bán tạp hóa của Mẹ tôi sát đường lộ. Nhà Khâm ở trên đất trong khu vườn rộng của Ông đại tá Tư cho thuê ở tạm .

Khi nghỉ học, tôi thường ngồi bên cạnh Mẹ nghe Bà nói chuyện. Mẹ tôi là người vui vẻ, nói chuyện rất dí dỏm có duyên. Bà biết rất nhiều chuyện đông tây kim cổ.  Bà thuộc nhiều thơ ca hò vè, từ bình dân như vè thất thủ kinh đô đến các làn điệu ca Huế như hò mái nhì, hò mái đẩy, nam ai, nam bình cổ bản, lưu thủy hành vân, tứ đại cảnh, kim tiền… với giọng hát thanh tao kèm theo những  giải thích rành rọt. Bà thuộc thơ từ Xuân Diệu, Thế Lữ, Hàn Mặc Tử cho đến Phan Bội Châu, từ Lục Vân Tiên đến Truyện Kiều, Phạm Công Cúc Hoa… Mẹ tôi đọc qua vài lần là nhớ như in và đọc vanh vách. Bà có trí nhớ rất tuyệt, tôi không sánh bằng. Mẹ tôi lại có tài nói chuyện tếu. Bà kể chuyện xong mọi người cười rộ mà Bà chỉ cười tủm tỉm thôi. Khách hàng đến mua một phần vì Mẹ tôi bán giá phải chăng, một phần vì quý mến Mẹ tôi và thích nghe Bà nói chuyện.

                                                                             *    *

Chiếc xe buýt tuyến Triều Sơn Tây, An Hòa – Đông Ba của anh Toàn lái dừng trước quán. Hai anh em Khâm và Dũng xuống xe, mặt tươi cười hớn hở. Dũng thấp người, trên tay bưng khệ nệ một cái khay và một bộ ấm chén trà men trắng, bao bằng giấy kiếng đỏ. Bộ ấm chén trà men trắng có in hình ông Thọ chống gậy có bầu rượu, con dơi bay và em bé ôm quả đào tiên rất đẹp.

Mẹ tôi hỏi: “Ở mô mà có bộ khay trà đẹp rứa?”.

Khâm trả lời : “Dạ, tụi con đi hội chợ chơi trò chơi chuột bạch, trúng số, được thưởng”.

Tôi hốp tốp nói với mẹ tôi : “Mạ cho con xuống hội chợ lấy bộ khay trà giống thằng Khâm”. Tôi nói chuyện dễ như lấy đồ trong túi không bằng.

Hai anh em Khâm vừa thắng giải, khoái chí dẫn tôi đi hội chợ. Mẹ tôi cho tôi đúng 12 đồng. Hai đồng cước xe buýt đi và về (mỗi lượt, một đồng), 10 đồng để mua 1 vé chơi trò chơi một lần, như thể chỉ chừng đó tiền tôi có thể mang về một bộ khay trà.

Chúng tôi níu tay người lớn qua cửa vô hội chợ khỏi tốn tiền mua vé và đi thẳng đến nơi có trò chơi chuột bạch, trò chơi mà hai anh em Khâm vừa mới trúng thưởng.

Hội chợ có khu triển lãm sản phẩm nông nghiệp ở khu vực đình Phú vân lâu, hai cánh là khu vui chơi. Có  nhiều trò: lô tô, tài xỉu, quăng vòng vịt, ném banh, bắn súng hơi, ném phi tiêu… trong những quầy phân chia riêng lẻ. Có một cái rạp lớn hình trụ có mái che phía trên, là trò biểu diễn mô tô bay. Người tham dự các trò chơi chen lấn nhau. Loa phát thanh, nhạc xập xình, tiếng reo hò tạo nên sự ồn ào náo nhiệt trong khu hội chợ.

Chúng tôi chẳng để ý đến những trò vui khác, vô hội chợ chỉ để chơi trò chơi “ chuột bạch” mà thôi. Một cái rạp nhỏ vuông vức, nằm biệt lập trên khu đất trống ở giữa khu giải trí. Người chơi đứng bao quanh. Ngay trung tâm là một cái lồng bàn có dây rút. Trong lồng bàn một con chuột bạch nhìn quanh có vẽ sợ sệt. Vòng trung tâm đứng yên. Bên ngoài vòng này có một đường chuột chạy hình vành khăn, trên đó, có 16 cái chuồng nhỏ có mái, cửa chuồng hình vòm hướng vô trung tâm. Hình vành khăn này quay tròn nhờ một cái moteur. Bên trong mỗi chuồng đều có cỏ để dụ con chuột chui vào. Chuột đã được huấn luyện nên chạy quanh và chui vào chuồng rất thuần thục.

Đến nơi, người ta đang bán vé cho lần chơi tiếp theo. Dũng nhanh tay mua ngay một vé. Tôi đang còn lớ ngớ thì nghe người bán vé rao: “Còn vé cuối cùng số 2 đầy hy vọng, số 2 may mắn đây”. Dũng khều tôi:” Còn vé, Đoàn mua đi tề”. Tôi vội vàng nói to, cơ hồ như sợ người khác tranh mua mất: “Cho em, cho em”.

Mua được vé, lòng tôi khấp khởi mừng và hy vong trúng thưởng, nhưng một bác đứng bên cạnh nói với tôi một câu giống như dội lên tôi một gáo nước lạnh: “Số 2 mới trúng nên không ai mua mà con mua làm chi ?” Tôi buồn bà nghĩ thầm :”Thôi, rứa là mất tiêu 10 đồng mạ cho”

Tôi càng tiu nghỉu hơn khi trò chơi bắt đầu. Vòng vành khăn bắt đầu quay. Những người tham dự trò chơi ồn ào như vỡ chợ. Khi vòng đó ngưng quay, lồng bàn được kéo lên. Chú chuột ngơ ngác định  hướng. Chuồng số 2 nằm về phía đuôi con chuột. Chuột chạy thẳng đến chuồng số 8 trước mặt, thò đầu vô ngữi. Tiếng la hét vang dội. Chuột thụt lùi chạy tiếp. Hết chuồng này đến chuồng khác, chuột cứ thò đầu vô rồi lại lùi ra. “Vô, vô,vô…” Cuối cùng tới chuồng số 2, chuột chui tọt vào nằm yên không ra nữa.

Tôi sung sướng quá nhảy cẩng lên. Người dẫn chương trình trò chơi reo lên: “Số cuối cùng đầy hy vọng đã trúng giải”. Tôi chìa tấm vé số 2 ra đầy hảnh diện. “Em bé đã trúng. Em lấy phần thưởng gì? Bộ son, bộ chén dĩa, cái chăn…” Anh kể ra một loạt các loại phần thưởng để cho tôi chọn lựa.

Tôi đáp nhanh không suy nghĩ : “Cho em lấy bộ khay trà giống như bộ của thằng Khâm”.

Chắc chắn anh ta chẳng biết Khâm là ai nhưng anh cũng vui vẻ tìm kiếm bộ khay trà. Anh lục tìm dưới quầy lấy ra được một bộ khay trà giống y hệt bộ mà anh em Khâm trúng thưởng và trao cho tôi.

Tôi vội vàng ôm bộ khay trà ra cổng đón xe buýt về nhà với 1 đồng còn lại.  Thấy tôi bước xuống xe trên tay bưng khệ nệ một bộ khay trà như của anh em Khâm , Mẹ tôi vô cùng ngạc nhiên. Bà nhìn tôi trìu mến, vừa mĩm cười vừa nói: “Con đúng là Trạng Cóc, tưởng nói chơi mà thành thiệt”. (Ở Huế, nói Trạng Cóc có nghĩa là nói dóc)

Bộ khay trà ấm chén được Ba Mẹ tôi giữ gìn kỷ lưởng. Bên cạnh nó là giai thoại về sự ngây ngô khù khờ của tôi. Mỗi lần Tết đến, dọn bánh mứt, pha trà Kim Lan của hảng trà Văn An Thái mời khách, Ba Mẹ tôi hay khoe: “Bộ khay trà thằng con tui  trúng thưởng hội chợ đó”.

3. Khờ khạo nên suýt không được thi tuyển vào Đệ thất (lớp 6 bây giờ).

Năm 1956, tôi học lớp Nhất trường  Tiểu học Vạn Xuân, gần bến đò Kẻ Vạn, cạnh khu Phú Mộng là khu nhà vườn nổi tiếng của thành phố Huế. Cô giáo dạy tôi là cô Tôn nữ Yến, con gái Cụ họa sĩ Tôn Thất Sa, nhà cách trường hơn trăm mét. Thầy Trần trọng Khoái nhà ở Vỹ Dạ, dạy lớp Nhì là Hiệu trưởng. Lớp tôi có trên 50 học sinh. Cô Yến là cô giáo rất tận tâm, giảng dạy rất hay nên trường Vạn xuân là một trường “nhà quê” mà kỳ thi vào Đệ thất công lập năm đó, lớp tôi đậu hơn một nửa.

Gần đến kỳ nghỉ hè, chuẩn bị cho kỳ thi vào lớp Đệ Thất (lúc này đã bỏ kỳ thi Tiểu học, học sinh đủ điểm trung bình là được cấp bằng Tiểu học), cô giáo phát cho mỗi trò một cái phom thẻ học sinh và dặn dò kỹ lưỡng mỗi em về ghi các chi tiết rồi nộp lại cho cô để Hiệu trưởng ký tên và đóng dấu của trường.

Tôi chẳng ý tứ gì cả nên bỏ cái thẻ ấy ở đâu mà tìm hoài không thấy.

Sáng thứ hai đầu tuần, học sinh nộp thẻ, tôi vẫn tìm chưa ra thẻ của mình. Tôi khờ khạo sợ bị cô giáo la mắng (tôi nghĩ vậy thôi chứ cô Yến nghiêm nhưng rất hiền) nên không nói cho cô biết điều đó. Thẻ học sinh được hiệu trưởng ký tên và đóng dấu mộc trả lại cho học sinh, thế mà cô giáo cũng không biết là tôi không có thẻ.

Mấy ngày sau tôi tìm ra thẻ nhưng vẫn sợ cô la mắng nên không trình với cô giáo. Tôi lại dại dột đem chuyện này nói với một thằng bạn học cùng lớp ở cạnh nhà là Nguyễn Hoài. Hoài ra vẻ là người hiểu biết (thật ra chỉ là THẦY DÙI) : “Dễ ẹt, mi cứ ký chữ ký của mi chồng lên trên cái ảnh là được thôi”.  Nói như vậy mà tôi cũng tin và làm theo. Tôi ký chữ ký mình chồng lên ảnh 4x6 và yên chí là thẻ học sinh của mình hợp lệ.

Trong lớp, tôi chỉ là học sinh trung bình khá. Sỉ số lớp trên 50 đứa, tôi xếp thứ hạng từ 10 đến 20 còn Lê văn Khâm thường xếp hạng từ 1 đến 3.

Kỳ thi vào lớp Đệ thất công lập năm 1957 ở Huế có Trường nữ trung học Đồng Khánh thi và chấm riêng, các trường nam sinh nạp đơn thi riêng nhưng chấm chung và công bố kết quả chung. Số học sinh dự thi trên 2000 mà chấm đậu 600.

Tôi không lượng sức mình nộp đơn dự thi vào trường Quốc Học, nghĩ đơn giản là học trường Quốc Học oai hơn mấy trường kia. Trường chỉ mở 2 lớp, lấy đậu chỉ khoảng 100 học sinh, trong khi các trường Nguyễn Tri Phương, Hàm Nghi xét trúng tuyển đến 200, 300. Khó đậu vào trường Quốc học  lắm.

Trước hôm thi một ngày, số ký danh đã được viết lên bàn thi. Sau khi dò số ký danh, ba tôi cẩn thận dẫn tôi vào tận phòng thi (từ cổng chính  nhìn vào là dãy lầu bên trái, phòng số 3, SKD  số 384, ngồi đầu bàn thứ 3 phía cửa ra vào).  “Chỗ con ngồi thi đây nè. Nhớ nghe”. Tôi dạ dạ ra chiều đã rõ.

Sáng đi thi, Ba tôi chở tôi bằng chiếc xe mobylette vàng đến trường sớm, đứng chờ trước cổng chính của trường. Cổng vừa mở, tôi nhát thấy Lê Văn Khâm đi trước tôi về phía dãy lầu bên phải. Tôi lúc thúc chạy theo Khâm, khờ khạo nghĩ rằng nếu ngồi gần Khâm lỡ làm bài thi bí chỗ nào thì có người để hỏi.

Ba tôi đứng trước cổng trường dõi mắt theo tôi, thấy tôi sao không đi về phía dãy lầu bên trái mà lại đi qua phía dãy lầu bên phải!!?? Gửi xe cho người bạn trông hộ, Ba tôi chạy vào níu vai tôi hỏi : “Sao con đi qua phía này?” Tôi trả lời không suy nghĩ: “Dạ, con đi theo thằng Khâm.”

Dắt tay tôi qua chỗ ngồi đúng số ký danh 384, ba tôi gặp Thầy Trợ Lữ, giám thị phòng, là bạn ba tôi. (Trận đói năm 1946, Thầy lên làng An Ninh Hạ tá túc nhà tôi một thời gian, được gia đình tôi giúp đở).

Ba tôi nói với Thầy : “Con tui đây, có chi nhờ Thầy giúp đở”. Thầy cầm thẻ học sinh của tôi lên coi, ngạc nhiên vì không có chữ ký và dấu của trường. Thầy nói: “Sáng ni may mà tôi coi thi phòng ni gặp cháu, chiều ni, thầy khác coi thi thì họ không cho cháu thi mô. Anh về tìm Thầy Hiệu trưởng ký tên đóng dấu vô thẻ để chiều cháu thi.”

Cũng may là Thầy Trần trọng Khoái, hiệu trưởng trường Vạn Xuân đang làm thư ký hội đồng thi ngay tại trường Quốc Học. Thầy ký tên rồi chỉ nhà Thầy ở làng Nam Phổ, gặp Cô để đóng dấu vô thẻ học sinh của tôi.

Sáng đó, thi môn Luận và Sử địa, Khoa học thường thức. Thi xong, gặp ba tôi, Thầy Trợ Lữ nói: “Cháu dại quá anh ơi. Tôi đứng bên nhắc bài cho cháu mà cháu không nghe, cứ làm bài theo ý mình”.

Chiều đó, thi Toán. Đề bài có bài toán đo lường, một bài toán động tử. Tôi làm bài được.

Ngày có bảng đậu, hội đồng thi tổ chức xướng danh ở trường Nguyễn tri Phương từ chiều tới tối mịt mới hết 600 học sinh đậu vào lớp Đệ Thất các trường nam sinh thành phố Huế.

Tôi đậu thứ hạng 384 giống y số ký danh của tôi và vào học lớp Đệ Thất 2 của trường Quốc Học. Sau này nghe nói là bạn Cung Trọng Bảo là Thủ khoa khóa thi vào Đệ Thất chấm chung năm 1957.

Chuyện lạ: Làm sao tôi nhớ số ký danh? Đơn giản vì trùng hợp với bảng số xe An Hòa của anh Toàn và số nhà của nhà hộ sinh Kim Anh gần đầu cầu Bạch Hổ. Cả hai đều có số 384.

4. Khờ khạo nên không biết Đàn Nam giao.

Thầy Nguyễn Phú Phụng dạy tôi môn Việt văn lớp đệ thất. Thầy dáng tầm thước, hơi gầy, khuôn mặt  thanh, mắt hiền, giọng đồng vang. Giờ chính tả, Thầy đọc nhanh rõ ràng. Có bài chính tả viết một đoạn trích trong bài tùy bút “Thương vay” của Xuân Diệu tặng nhà thơ Huy Cận.

“…Con đường Nam Giao thẳng mà không bằng; tôi khởi sự đi trong ánh sáng, và tôi tới lần trong bóng tối, tợ hồ bên thành phố Huế là ngày, bên đàn Nam Giao là đêm…..”

Tôi chẳng biết cái đàn Nam giao là cái chi chi nên lúng túng. Đầu câu có chữ “đường”, vô lẽ dưới này là “đàng”, mà đàn không “G” thì trong đầu tôi chỉ có “cây đàn”. Cuối cùng chầm chày may rủi (năm ăn, năm thua) tôi viết đại “ đàng Nam Giao”. Thầy Phụng vòng lại chữ “đàng” và chấm dấu hỏi, ý chừng Thầy muốn nói:“ Ối chà, đàn Nam Giao mà trò cũng không biết hay sao ?!”



5. Khờ khạo nên vào Tòa Đại biểu……mét mạ.

Niên khóa 1958-1959, chương trình học đệ nhất cấp phân ngoại ngữ thành sinh ngữ chính (SN1), sinh ngữ phụ (SN2), với hệ số khác nhau. Tôi chọn Anh Văn là sinh ngữ chính nên được trường phân qua học lớp đệ lục 2.

Năm 1959, tôi học lớp đệ ngũ 2.  Tôi ngồi bàn đầu, bên phải là Lê Thẻo, bên trái là Nguyễn Văn Trợ và Lê Văn Hiếu ngồi ngoài cùng sát vách. Ngay sau lưng tôi, ngồi bàn thứ 2 là Hồ Đắc Nhẫn. Nhẫn cao to, đẹp trai, con Ông Hồ Đắc Khương, là Đại biểu chính phủ Miền Bắc Trung nguyên và Cao nguyên Trung Phần. Mặc dù là con ông lớn nhưng Nhẫn vào lớp bình dị, không kiểu cách và cũng thể hiện đẳng cấp thứ ba sau ‘nhất quỹ nhì ma” như đa số chúng tôi hồi đó. 

Hồi đó, cả tuần, ngoài những giờ học buổi sáng, chúng tôi còn học thêm 4 buổi chiều, trừ chiều thứ năm và thứ bảy.


                                                      ***

Một buổi chiều thứ tư, trước kỳ thi đệ nhất lục cá nguyệt lần 1, sau giờ ra chơi, Trợ ghé vào tai tôi nói nhò:” Ê, thằng Nhẫn rảy mực sau lưng áo mi tề”. “Mô?”. Trợ kéo vạc sau áo của tôi cho tôi thấy, mấy đường lấm tấm mực xanh trên lưng áo trắng.

Thời đó chúng tôi không được phép dùng bút bi viết vào tập vở. Bút máy là Pilot, Parker hay bút sản xuất ở Chợ lón phải bơm mực. Bình mực pilot hình dẹp hay parker hình tròn. Về mùa lạnh mực hay bị nghẻn nên học sinh có thói quen rảy cây bút để mực chảy ra đầu bút mới viết được. Có lẻ Nhẫn vô tình rảy mực trúng phải lưng áo của tôi mà thôi.

Tôi đứng dậy xoay người lại : “Mi chơi chi lạ rứa? Rảy mực vô áo tau !”. Lẽ ra, Nhẫn ôn tồn giải thích thì tôi cũng vui vẻ về nhà ngâm áo để giặt. Đằng này hắn cũng lên gân: “Chơi rứa đó, mi làm chi tau”. Tiện tay có quyển vở Nhẫn đang để trên bàn, tôi không kềm được, xòe tay vò quyển vở của hắn nhàu đi. Không kém, Nhẫn chồm người lên, thò tay vào hộc bàn của tôi, kéo cái cặp đựng sách vở của tôi, ra sức xé toạt.  Tôi chưa kịp phản ứng gì thì đã nghe cái rẹt, da cặp cứng như vậy mà rách một đường dài đến tận đáy cặp.

Bạn bè trong lớp lao xao. Đúng lúc đó Thầy vào lớp.

Hai giờ học cuối trôi qua nặng nề, vì tôi ấm ức thằng bạn chơi ngang như vậy. Cái cặp là quà tặng ba tôi mua ở hiệu giày Tân Thành, khi tôi thi đậu vào lớp đệ thất .

Khi bãi trường, mấy đứa bạn thân xúi:” Mi tới nhà hắn mét mạ hắn đi. Chơi mà xé cặp như ri là mạ hắn đánh cho sưng đít. Mạ hắn nghiêm lắm”.

Tôi đang tức khí, nghe như vậy bùi tai, lên chiếc xe đạp mini thẳng đường tới Tòa Đại biểu. Đang phom phom đạp xe đi vô cổng hông Tòa Đại biểu trên đường Lê Lợi, bác bảo vệ cổng chận xe lại: “Ê, cháu đi mô rứa”. Tôi thật thà đưa cái cặp rách cho bác coi: “Dạ, con vô mét mạ thằng Nhẫn”. Bác cười, ôn tồn nói với tôi: “Cháu  đi ngã ni vô thì bác bị la liền. Cứ làm như bác không biết, cháu đi qua ngã Viện Đại học Huế, có đường thông qua Tòa Đại biểu. Cháu dựng xe nơi vách đó, rồi leo lên cầu thang. Sát cầu thang là phòng ở của bà Đại biểu, Bà dang ở trên phòng”.  Bác chỉ dẫn đường đi rõ ràng như vậy thì chắc là bác cũng muốn tôi vô mét mạ hắn.

Hành lang lầu một không có bóng ai. Chỉ một mình tôi rón rén bước. Một người đàn bà trung niên nhẹ nhàng bước ra hỏi : “Cháu tìm ai?”. Tôi đoán chừng đó là bà Đại biểu. Bà có dáng người thanh cao, nước da trắng, khuôn mặt thanh tú, cử chỉ và giọng nói rất dịu dàng. Bà mặc bộ đồ lụa màu trằng ngà làm tăng vẽ quý phái. Hai cô gái dáng vẽ cũng thanh nhã ngồi trên giường, chắc là chi em của Nhẫn. Tôi đưa cặp sách vở cho Bà coi và nói sơ chuyện xảy ra trong lớp chiều đó. Bà có vẻ áy náy : “Bậy quá, bác la hoài mà nó không nghe. Chừ chuyện đã lỡ rồi, Bác gởi tiền để con mua cái cặp mới nghe”. Tôi vội  nói: “Không, con lên đây là để nói cho bác biết thôi, để bác la thằng Nhẫn, chứ không phải con muốn bắt đền”. “Bác đền tiền mà con không chịu thì thôi, để bác khâu lại cho con nghen”. “Thôi. để con về nhà khâu cũng được”.

Miệng nói, tay Bà với lấy hộp kim chỉ để sẳn đầu giường. Không biết trong hộp kim chỉ của gia đình sao lại có cây kim dài và sợi chỉ lớn khâu da ?! Bà bắt đầu khâu lại đường rách trên cái cặp.

 Hình ảnh một bà Đại biểu, một mệnh phụ phu nhân, ngồi trên giường tì mẫn từng đường kim mũi chỉ khâu lại cái cặp bị xe rách toạt cho bạn học của con mình là hình ảnh không ai có thể tưởng tượng nổi . Từ giờ phút đó, mãi về sau này, tôi luôn ca ngợi hết lời “người mẹ của bạn tôi”. Việc làm trông có vẽ nhỏ mọn nhưng thể hiện một con người bình dị, một tấm lòng nhân hậu bao dung, tôi gọi đó là “tâm hồn cao thượng”

Trong khi ngồi khâu cặp, Bà ân cần hỏi tôi về gia đình, chuyện học hành trong lớp. Bà nói với 2 người  con gái:” Con ra nói với chú bảo vệ, tìm thằng Nhẫn về đây gấp”. Cô gái đến bên cửa sổ nhìn ra ngoài, chợt reo lên: “Thằng Nhẫn đừng chơi ngoài công viên kìa”.  “Nói chú bảo vệ ra kêu hắn lên đây”.

Ngoài công viên nhỏ hình tam giác trước Tòa Đại biểu, hàng me bao quanh, đội kèn quân nhạc đang tập luyện những khúc quân hành. Hèn gì, tôi tới đây đã lâu, bà Đại biểu khâu gần xong cái cặp rách mà Nhẫn vẫn chưa về tới.

Thấy tôi, Nhẫn khựng lại một chút. “Con chơi mà ăn hiếp bạn bè trong lớp như ri há?”.” Hắn vày vở con”.

“Con rảy mực vô áo bạn, rồi xé cặp của bạn, coi như rứa được không?”. Không đợi cho Nhẫn bào chữa thêm, bà rút một cây gỗ (tiết diện chừng 3x5 cm) thẳng tay quất vào mông Nhẫn một phát như trời giáng.

Cây gỗ gảy ngang, một nửa rơi loảng xoảng trên nền gạch bông. Tôi thất kinh, không ngờ bà nghiêm khắc dạy con như vậy. Tôi hoảng quá, chạy đến ôm lấy tay bà, sợ bà đánh tiếp. “Thưa bác, con lên đây để mét cho bác biết chuyện để bác la hắn chứ đừng đánh hắn, tội nghiệp”.

Trời  chiều, nắng tắt, tôi chào mọi người ra về. Nhẫn hầm hầm không ừ hử !

……………………………..

53, 55 năm đã trôi qua. Trong kiếp phù sinh, tình xưa đọng lại trong tâm tư con người ở một góc thẳm nào đó. Nhắc lại chuyện xưa ở đây, tôi muốn nói với những người bạn cùng trang lứa trung học đệ nhất cấp Quốc Học năm xưa, nay  đã đi vào thiên cổ (Lê Văn Khâm, Lê Văn Hiếu, Lê Thẻo , Nguyễn Đình Huyên, Nguyễn Nam….) rằng tôi luôn tưởng nhớ các bạn và cũng muốn nói với những bạn cùng lớp đang sống trên mọi miền đất nước hay đang ở nước ngoài rằng: Tôi luôn yêu mến các bạn.

Lê Duy Đoàn
Sài gòn, 30/11/2012.
READ MORE - THẰNG BÉ KHỜ KHẠO...DỄ THƯƠNG - Lê Duy Đoàn