|
Tuệ Thiền |
* Chưa có triết lí về giá trị
nhân sinh thì văn hoá-giáo dục còn khập khiễng.
* Khi triết lí giáo dục chưa
minh triết thì tất yếu dẫn đến suy yếu đạo đức nghề nghiệp ở người lao động.
* Nền văn học nào, nền giáo
dục nào không giúp được con người nhận ra các bệnh tâm hồn, không giúp con
người biết cách tự chữa trị có hiệu quả, thì đó là nền văn học, nền giáo dục
còn nhiều yếu kém.
* Nhà giáo yếu kém nhân cách
thì chỉ là công cụ tồi, có hại cho
xã hội rất lớn (vì nhiều người ngây thơ
tin tưởng vào họ). Tu sĩ yếu kém nhân cách cũng thế.
* Tâm hồn đen tối tạo ra xã
hội đầy tệ nạn. Muốn xây dựng xã hội tốt
đẹp, phải có nền giáo dục có khả năng giáo dục tất cả mọi người (không trừ một
ai) nhận thức sâu sắc các bệnh tâm hồn, phải làm cuộc cách mạng nội tâm tận đáy
cái “tôi”.
* Chưa nghiên cứu nghiêm túc
về bản ngã (cái “tôi") thì chưa thể có
đường lối giáo dục đúng đắn.
* Cái “tôi" càng lớn,
càng bền chắc, càng xảo quyệt, càng tự tôn, càng bè phái thì sự liêm khiết trí
thức càng suy yếu, tư tưởng và hành vi “người bóc lột người” càng đa dạng .
* Khi cái “tôi” xâm lấn, bóc
lột người khác, nó luôn ẩn núp sau những lời hoa mĩ.
* Càng tôn vinh quá độ các
gíá trị bản năng và công cụ (nhất là
công cụ trí óc) thì thế giới càng đảo
điên, khốn đốn.
* Vắng mặt năng lực tự tri tự
chủ, vắng mặt trí-lương-tri thì trí-công-cụ sẽ trở thành tôi tớ cho
trí-chó-sói.
* Mọi tài năng đều có giá trị
về mặt công cụ, đều có thể góp phần làm cho cuộc đời tốt đẹp hơn. Nhưng cái
năng lực quý giá nhất làm cho con người giữ vững giá trị làm người, đó là sự tự
tri tự chủ. Thiếu cái năng lực này, các tài năng khác có thể biến con người
thành ác quỷ, dã thú, kẻ đê tiện.
* Sự xấu ác là biểu hiện của
cái “tôi” (bản ngã) đen tối.
* Cái “tôi” càng lớn thì tình thương càng nhỏ. Càng chấp thủ cái
“tôi”, bệnh tinh thần càng nặng; càng ảnh hưởng có hại cho tha nhân, môi trường
bằng hành vi, bằng thái độ, bằng năng lượng tâm ý.
* Nếu giàu tri thức, giàu tài
năng nhưng yếu kém lương tâm, lương tri thì chỉ là công cụ; chưa có nhân cách;
còn nghèo trí tuệ; chưa trưởng thành toàn diện.
* Bệnh thành tích sinh ra
thói dối trá, thói dối trá sinh ra sự thối nát.
* Người chân chính thì đừng
sợ bị chê bai, bị phê phán; không có lời chê bai, phê phán thì khó nhận thấy
khuyết điểm, sai lầm.
* Nhà tâm lí học không thể
hiểu biết sâu sắc cơ cấu tâm lí nếu không thiền định tự tri. Nhà giáo dục học
sẽ không có tầm nhìn minh triết về giáo dục nếu không hiểu biết sâu sắc cơ cấu
tâm lí con người. Nhà truyền bá tôn giáo sẽ hạ thấp giá trị tôn giáo nếu thiếu
quan tâm vấn đề này.
* Không ai là không có tâm
xấu ác, điều quan trọng là phải nỗ lực
cải tạo. Thực hành “tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là trách nhiệm của mọi người.
* Càng hướng đến lí tưởng vô
ngã thì cái “tôi” càng giàu thiện ích mĩ.
* Một vấn đề lớn của thời đại
chúng ta, là làm thế nào để xây dựng vững chắc cảm hứng sống có đạo đức nhân
văn ở con người.
* Đừng coi thường việc chữa
trị các bệnh tinh thần, vì nếu thế, văn minh vật chất và sự hưng thịnh kinh tế
chỉ như sức lực dồi dào của một gã khùng hung hãn, sẽ rất nguy hiểm cho nhân
loại.
* Khi tâm hồn không có lí
tưởng thánh thiện và minh triết thì con người rất dễ bị cái xấu lôi cuốn, rất
dễ bị tha hóa biến chất.
* Không biết tu tâm thì không
thể phát triển nhân cách. Sự tu tâm chân chính là việc làm quan trọng, có ý
nghĩa lớn đối với xã hội, vũ trụ.
* Làm cho con người biết yêu
quý nét đẹp tâm hồn mình, đó là nhiệm vụ cao cả của văn hoá, của giáo dục, của
tôn giáo.
* Người biết yêu nét đẹp của
tâm hồn là người trưởng thành tâm trí, là người có tinh thần dũng cảm, biết
sống với hạnh phúc chân chính.
* Tâm ý xấu ác không chỉ có
hại cho thế giới, mà còn rất hại cho môi trường năng lượng của mình.
* Có đức mà không có tài,
không phải là vô dụng, vì vẫn có tác dụng giáo dục lớn lao đối với xã hội (qua
lối sống), vì vẫn mang năng lượng tinh thần (thiện ích) ảnh hưởng tốt đến môi
trường sống của cộng đồng (có cả giá trị giáo dục). Có tài mà không có đức,
không chỉ có hại cho xã hội về hành vi xấu, mà còn mang năng lượng tâm thức độc
hại cho môi trường (và cho bản thân mình). (Vấn đề này Phật giáo gọi là tạo
nghiệp tốt xấu; nghiệp cũng mang năng lượng; toàn vũ trụ là những dòng chảy
năng lượng).
* Muốn chữa cơn bệnh nặng,
không thể chỉ uống vài lần thuốc. Muốn rèn luyện cơ thể, không thể chỉ cần một
vài buổi tập. Cũng vậy, muốn cải tạo những tính xấu thì phải có chương trình
học tập, rèn luyện lâu bền. Đây là điều mà ngành giáo dục cần quan tâm đúng mức
khi bàn đến chất lượng giáo dục, hiệu quả giáo dục (Giúp cho mọi người có cảm
hứng tự hoàn thiện nhân cách, đó là vấn đề cực kì quan trọng của giáo dục, của
văn hóa).
* Tư tưởng xuất thế góp phần
làm trong sạch sự nhập thế.
* Tôn giáo có ý nghĩa lớn
về đạo đức, về cảm hứng, nhu cầu cải tạo
tâm tính, nếu tôn giáo giàu từ bi bác ái.
* Không xiển dương sự thanh
tẩy tâm thức thì tôn giáo, tín ngưỡng chứa đầy mê tín có hại.
* Sự tĩnh tâm tự tri có công
năng giữ gìn lương tri, sự tự chủ, sức khoẻ tinh thần, giá trị làm người .
* Từ năng lượng quán tâm (tự
tri) xuất sinh tình thương, niềm vui, năng lực sáng tạo có chất lượng cao, xuất
sinh nhãn quan minh triết, tác dụng giáo dục.
* Thiền định tự tri thì không
thuộc riêng tôn giáo nào hay nền văn hoá giáo dục nào; đó là tài sản cực kì quý
giá của nhân loại muôn đời, của vũ trụ.
* Giáo dục “toạ thiền-quán
hơi thở-tự tri” là biện pháp tối ưu để nâng cao hiệu quả giáo dục, thăng hoa
tâm trí, cải thiện thế giới.
* “Tự tri-tỉnh thức-vô ngã”
là đạo lí của vũ trụ, là mẫu số chung của ý nghĩa cuộc sống, là Thiền; mang
năng lượng tích cực có lợi cho toàn vũ trụ, cho sự thăng hoa trí tuệ-tâm linh
chung của tất cả.
* “Tự tri” là quán chiếu tâm
thức, là biết rõ tâm trí. “Tỉnh thức” là tâm không vọng tưởng. “Vô ngã” là tâm
thái hoà bình, an lạc, yêu thương, thiện ích, tự do tự tại, diệu dụng, bất sinh
bất diệt, tịch tri, tịch chiếu.
* Viên mãn “tự tri-tỉnh
thức-vô ngã” rất khó, nhưng chỉ có hướng
đến đó mới xây dựng được mẫu số chung cho nhân cách, cho ý nghĩa cuộc sống. Chỉ
có hướng đến đó mới tạo nên tiếng nói chung cho hoà bình, công bằng, nhân ái -
thật sự biết tôn trọng nhau giữa người với người.
* Theo nhiều nhà khoa học tự
nhiên, năng lượng tâm thức là dạng năng lượng cơ bản, có ảnh hưởng tốt hoặc xấu
cho toàn vũ trụ (tuỳ tính chất tâm thức)
và cho bản thân.
* Theo cách nói của nhiều nhà
vật lí thì vũ trụ là một mạng lưới chằng
chịt vật chất và tâm linh tương quan với nhau. Hiểu như vậy, sẽ thấy toàn vũ
trụ là một cơ thể bất khả phân.
* Thiền là sống tỉnh thức,
thực tế và minh triết.
* Thiền định tự tri càng cao
thì càng minh mẫn hơn, chủ động hơn với cuộc sống, với công việc; năng lượng
phiền não được chuyển hoá thành năng lượng an lạc, thiện ích .
* “Tự tri-tỉnh thức-vô ngã”
là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
* Nghề nghiệp, công việc chỉ
có tính chất quan trọng (nhiều hay ít), chứ không có tính chất cao quý. Sự
cao quý thuộc về nhân cách, lương tâm.
* Ở giữa vườn hoa, xác chuột
chết vẫn thối; ở giữa đầm bùn lầy, đoá sen vẫn thanh khiết.
* Không có sự liêm khiết
trí thức thì không có năng lực tư duy
minh triết về những vấn đề trọng đại của cuộc sống, dù có học vị tiến sĩ triết
học hay bất cứ gì.
* Phải biết “ghét” bệnh
phong, nhưng đừng ghét người mang bệnh
phong; cũng vậy, phải biết ghét thói xấu nhưng đừng ghét người đang có thói
xấu. Sự xấu ác là bệnh tinh thần.
* Khi kẻ ác tấn công ta, ta
sử dụng trí tuệ và lòng dũng cảm để đối phó với chúng; làm như thế thì có lợi
hơn là sử dụng lòng căm thù.
* Giá trị làm người thể hiện
ở hiệu quả thiện ích , ít tác hại (nhất là ở mặt “tiềm ẩn” là năng lượng tâm
thần) đối với xã hội, đối với vận hành của vũ trụ.
* Truyền bá minh triết Thiền
Định Tự Tri là góp phần cải tạo xã hội.
* Thượng Đế (hay
Chân-Thiện-Mĩ) không thuộc về phe này
hay nhóm kia, không thuộc về hình tướng nào; mà thuộc về những tâm hồn trong
sạch, bình đẳng, bác ái, từ bi. Đó là Tánh Viên Giác.
* Truyền bá minh triết thiền
“tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là góp phần xây dựng nền văn hoá hoà bình, nền văn
hóa tiên tiến.
(Trích trong Đường Về Minh Triết; NXB Văn
Nghệ, 2007)
Tuệ Thiền
(Lê Bá Bôn)