Theo lịch sử của làng An Cư thì Ngài khai khẩn của làng
vốn là một vị tướng của chúa Nguyễn Hoàng, quê gốc ở Thanh Hóa, phụng mệnh vào
đánh dẹp quân Chiêm Thành ở vùng Cửa Việt. Khi dẹp xong thì Cửa biển này mang tên
là Cửa Việt Yên. Ngài chọn vùng đất gần cửa biển để định cư và đặt tên làng là
An Cư để cầu mong sự yên bình, con
cháu muôn đời lạc nghiệp. Dinh của Ngài nằm cạnh bờ sông và quay ra hướng Bắc,
ý muốn bày tỏ tình cảm với tiền nhân ở quê cũ - với tâm nguyện: ly hương bất ly tổ!
Làng chỉ cách biển Cửa Việt chưa đầy hai cây số đường
chim bay nên dòng sông quê bốn mùa nước mặn, càng về mùa hè nước càng mặn, độ mặn
không kém nước biển là bao. Mỗi năm chỉ đôi lần có thể nếm thấy nước ngọt nhưng
không uống được, đó là lúc dòng sông trướng bụng uống hết nước lụt từ đầu
nguồn Thạch Hãn và Hiếu Giang đổ về, nước đục ngàu nên dân gọi là nước bạc!
Lẽ thường tình, dân định cư nơi nào thì
nơi ấy phải có đất để làm ăn và có nước để uống và sinh hoạt, nhưng nước mặn sông
quê tôi chẳng những không giúp được gì mà còn mang tai họa đến cho làng. Đó là
những năm hạn hán, nước biển vào sâu trong lòng sông, tràn vào ruộng và mùa
màng mất trắng, đói là không tránh khỏi!
Để có thể tồn tại, dân đã đào giếng. Đầu
tiên là giếng Làng, cái giếng to nhất, sâu nhất để cung cấp nước cho cả làng.
Giếng nằm cạnh đình làng nên cũng gọi là Giếng Đình. Về sau các nhà
có sức đã đào giếng trong vườn nhà mình. Có mấy nhà giàu xây giếng bằng gạch.
Những gia đình nghèo khó trong làng đành đến xin lấy nước nhờ, thậm chí cả
lúc đêm khuya, mà chủ nhà cũng thông cảm, không làm khó dễ. Điều này thể hiện
rõ nét cái gọi là tình làng nghĩa xóm.
Khổ một nỗi, cả làng có đến gần mười cái giếng, nhưng
không giếng nào có được nước ngọt có thể uống được! Nước giếng có độ phèn quá
lớn nên thường nổi màng trên mặt, nước đục ngàu như nước canh cua đồng và đưa
lên mũi ngửi đã thấy mùi hôi không chịu nổi!
May thay, có sự bù trừ cho những con người bất hạnh!
Đầu mút kia của làng lại có sẵn một cái giếng cổ, đường kính chừng hai mét rưởi,
sâu chừng năm mét, tên gọi là Giếng Côi.
Đây là cái giếng tròn được xây dựng bằng cách xếp từng hòn đá lớn
chồng lên nhau thẳng đứng thành hình trụ từ đáy đến miệng, chỉ
thành giếng là có trát thêm một ít vôi vữa. Thành giếng không cao,
chỉ vừa tầm cái ghế đẩu để người ta có thể ghé ngồi lên nó. Không
ai biết vì sao giếng có tên này – có lẽ nó ở côi cút đầu mút làng nên có
tên gọi như thế chăng? Một điều được nhiều đời xác nhận là giếng này có từ thời
Chiêm Thành, trước khi làng được lập nên. Rất có thể vùng đất này trước kia là
làng mạc của người Chiêm; khi thua chạy họ không mang giếng đi theo được, đành
để lại cho dân làng chúng tôi!
Thừa hưởng chiến lợi phẩm này là phước đức mười đời
để lại, bởi vì cả làng chỉ có nguồn nước này là trong lành nhất, ngọt nhất, múc
lên uống một ngụm là thấy sảng khoái cả người, không hề bị đau bụng! Ngặt một
nỗi giếng chỉ có nhiều nước về mùa mưa, xem như là cái bể chứa giữa trời, còn mùa
hè thì khô cạn; trời càng nắng to, gió Lào càng thổi mạnh thì giếng chỉ còn trơ
đáy! Mùa hè là lúc dân cần nước uống hơn bao giờ hết, vì vậy đã hơn bốn thế kỷ
qua dân làng vẫn bám vào giọt nước trong lành chắt từ Giếng Côi, như đứa trẻ đói
lòng cố sức mút cho được giọt sữa cuối cùng của bầu vú đã xép ve của Mẹ!
Cả làng
đang đói nước! Để có nước uống, người ta đã phải tính toán đủ điều: Mỗi nhà
dù có bận bịu công việc bao nhiêu cũng phải cử một người lo đi chắt nước Giếng Côi. Đáy giếng có cát trắng,
xen lẫn một ít đá sỏi kích cỡ khác nhau. Người ta phải trụt xuống sắp đá sỏi
qua một bên, chừa một khoảng nhỏ bằng cái sàng rồi khoét sâu thành hình lòng
chảo để chắt nước. Một mạch nước nhỏ chậm rãi rỉ ra đều đều từng
ngụm, từng ngụm, …để duy trì nguồn sống cho những con người khốn khổ
đang kiên trì chờ đợi!
Dân chắt nước dùng mo cau chằm theo hình gàu dai thả
xuống, thả thật khéo mới rơi được vào lòng chảo ấy. Người đi sớm thì thả được
theo ý mình, nghĩa là được thả nhiều lần cho đến lúc nào trúng đích, vì chưa có
người tranh giành. Người đi sau thì thả chồng lên trên hay sát bên cạnh,
chờ người trước kéo gàu lên thì mình được phần, chẳng khác chi cảnh
chen lấn mua tem phiếu thời bao cấp! Khi thấy trong gàu mo người ấy có được
một ít nước thì các bạn sắp đến phiên liền giục người ấy kéo gàu lên để họ
dịch gàu mình vào chỗ có nước. Gàu nước múc lên có khi được nửa gàu, có khi chỉ
được góc gàu có lẫn nhiều cát trắng. Nếu ai khát quá, nghiêng gàu uống liền
thì cát chạy theo vào miệng đành phải nhổ ngụm nước ra! Hôm nào may mắn, một
buổi chắt được một thùng. Chia đôi ra mà gánh về; hôm nào đông quá thì chỉ được
góc thùng. Có hôm rủi ro, gặp nhiều người
múc quá không có chỗ bỏ gàu thì đành về không! Nước chắt gánh về thì phải
để vài ba giờ cho cát lắng xuống đáy thùng rồi cẩn thận gạn nước
qua thùng khác mới khỏi bị cát lẫn vào. Dân làng tôi đã bao đời
uống nước Giếng Côi bằng cách ấy! Người ta kháo nhau nhờ uống mạch
nguồn nước Giếng Côi mà làng có nhiều người làm quan to. Không có nước
uống, người ta đã nghĩ ra nhiều cách, nhiều mẹo vặt: chắt nước buổi sáng, buổi
chiều không được thì đi vào lúc giữa trưa là lúc nắng như đỏ lửa, vì họ nghĩ
rằng người khác ngại nắng nóng mà ở nhà. Kế này thất bại, vì khi đến giếng thì
thấy còn có nhiều người tranh hơn là lúc thường. Thôi đành đi chắt nước vào ban
đêm. Khổ nỗi ban đêm trời mát, công việc đồng áng đã xong thì ai cũng tranh thủ
đi chắt nước. Trong đêm tối trốn nhau, lặng lẽ ra đi, nhưng khi đến nơi thì đã
thấy đầy người ở giếng. Người ta đành về ngủ một giấc, đợi đến nửa đêm, lúc
hai, ba giờ sáng sẽ đi. Lúc này chắc người khác đang ngon giấc! Ngờ đâu mọi
toan tính cũng đều thất bại, mình biết đi lúc gà gáy sang canh thì người ta cũng
làm được như mình. Thôi đành gánh thùng không mà về!
Nghĩ đã hết cách mà không chắt được nước, người ta đành
xuất chiêu cuối cùng: Tung tin đồn ở giếng có con ma Hời từ thời Chiêm Thành ở
lại, ban đêm thường trêu chọc đàn bà, con gái, hù dọa cả đàn ông. Một số
phụ nữ nghe vậy cũng nhát gan, không dám đi đêm. Nhưng khi đến giếng, kẻ
chủ mưu vẫn gặp người; bây giờ không phải là đàn bà, con gái mà là đàn ông đi
chắt nước! Mới hiểu ra vợ sợ ma thì trao việc nước nôi cho chồng! Và rồi, lúc
túng thì phải dùng hạ sách: Anh chồng nhà chủ mưu đành đi sớm, leo xuống đáy
giếng ngồi chờ. Đêm trời tối đen như mực. Ai thả gàu xuống anh ta đều níu lại.
Một hồi lâu người ta kéo gàu lên thì thấy nặng trĩu, Kéo mãi chẳng lên! Không
ai dám trụt xuống giếng tìm hiểu lý do nên họ kháo nhau là ma không cho
múc nước giếng Hời nên giữ gàu lại. Họ đành bỏ gàu ở đáy giếng mà về. Hôm
ấy người bày mưu đã thành công: Chắt cho đến gần sáng thì được hai thùng đầy
tràn miệng, lặng lẽ gánh nước về mà lòng vừa reo vui, vừa hổ thẹn – hổ thẹn vì
đã do lòng ích kỷ mà lừa đảo người khác, cũng chẳng ai xa lạ, toàn
những người hàng ngày chôống cựa
chộ chắc!
Ba
làng ở bên kia sông còn bất hạnh hơn làng tôi. Họ cũng là dân nước
mặn, đồng chua mà lại sống giữa ốc đảo, đào khắp làng không có
giọt nước ngọt lành như nước giếng Côi, nên họ phân bì rằng làng An
Cư có phúc! Uống nước phèn không chịu nổi, một số họ đã vất vả
chèo ghe qua chắt nước giếng Côi của làng tôi với những lời cầu xin
sự thông cảm! Nói vậy để thấy được rằng nước Giếng Côi quý như là thuốc
bổ cần dùng lúc ốm đau!
Đi chắt
nước đã trở thành những buổi giao lưu gặp gỡ của các đôi trai gái
trong làng. Ngồi chờ chắt nước chẳng khác chờ cá cắn câu, nghĩa là
thời gian nhàn rỗi rất dài, biết làm gì cho đỡ trống trải. Họ lại
ngồi trò chuyện, đùa giỡn hay hát giao duyên. Những cô thôn nữ nước da
bồ quân, má lúm đồng tiền, xỏa mái tóc dài bên thành giếng, miệng
cười tươi như hoa đã làm xiêu lòng những chàng trai làng có mặt ở
giếng để làm nhiệm vụ “chắt nước
uống” cho gia đình. Từ chỗ trốn
nhau mà đi thì lại sinh ra chuyện hẹn nhau cùng đi, hẹn thời điểm nào
đoán rằng có ít người đến chắt nước để họ dễ tỏ bày chuyện riêng
tư cho nhau. Và đã có nhiều cặp trai gái se duyên nhờ những buổi chắt
nước Giếng Côi trong đêm khuya vắng vẻ. Họ đã thề non hẹn biển, đại
để như: Nếu anh bỏ em thì em nguyện
rằng con ma Hời của Giếng Côi sẽ nhốt anh xuống đáy giếng suốt đời,
không cho anh về với gia đình! - Còn nếu em mà bỏ anh thì anh nguyện
với thần Giếng Côi rằng em sẽ phải suốt đời làm vợ người Chiêm
Thành, không bao giờ được về lại quê hương!
Trong nhiều cặp tình nhân chắt nước
giếng Côi, có cặp đã thành vợ, thành chồng và sống trọn đời hạnh
phúc. Nhưng cũng có cặp do cha mẹ can ngăn, cấm đoán nên không lấy
được nhau, khiến họ phải xót xa, sầu hận trong lòng. Chẳng hạn như
đôi trai gái làng sau đây đã có mối tình “Giếng Côi” gặp cảnh oái oăm. Họ đã yêu nhau và thề thốt
hết lời với thần Giếng, với ma Hời rằng trọn đời không thay lòng,
đổi dạ. Tin nhau đến nỗi cô gái vượt quá lễ giáo gia đình! Kết quả
của mối tình Giếng Côi là làng xóm tiếng ong tiếng ve, cha mẹ hai bên
không chấp nhận nên cả hai anh chị đã rủ nhau trốn đi biệt xứ. Đêm đi
trốn, họ đã chờ lúc giếng không có người để thả gàu xuống, đợi lúc
có nước thì múc lên, hai người uống hai ngụm dòng sữa ngọt của quê
hương rồi dắt tay nhau lên đường, hẹn có ngày ăn nên làm ra sẽ đàng
hoàng trở lại với làng nước, với Giếng Côi muôn đời yêu quý!
*
Chiến tranh nào cũng tàn phá, hủy diệt, kể
cả làm băng hoại đạo lý con người. Cái Giếng Côi đã từng bao đời
cung cấp nguồn nước trong lành, nuôi sống dân làng, nay đã trở thành
một kẻ khuyết tật, dị hình thật tội nghiệp! Bom đạn đã đánh bay
thành giếng, lòng giếng bị mảnh đạn khoét sâu vào nhiều chỗ, đất đá,
vôi vữa đổ xuống thành một đống ngổn ngang!
Dân tản cư trở về làng. Họ tìm đến với
giếng thì vô cùng thất vọng vì nguồn nước đã bị vùi lấp. Không ai
có tầm nhìn xa rộng nên họ không chịu hợp lực, quyết tâm đưa đất đá
dưới đáy giếng lên để tìm lại mạch nguồn quý hiếm ngày xưa. Họ lại
cam chịu uống nước phèn và nhờ lượng nước mưa hứng được giữa trời.
Từ đây Giếng Côi ngày càng tồi tệ, thê thảm,
và trở thành một kẻ mồ côi!. Các
gia đình ở gần giếng xem nó là cái hố rác của nhà họ. Lúc nào có
rác là đem đến giếng đổ; trẻ con chơi đùa, chúng ném bất cứ thứ gì
chúng thích xuống lòng giếng. Chẳng bao lâu đống rác đã ngập lên gần
đến miệng giếng. Về mùa mưa, giếng dâng lên một màu nước đen ngòm,
mùi thối tha đến lợm giọng. Ai đi ngang qua nhìn vào cũng bịt mũi,
bỏ đi. Thế là hết một thời được yêu thương, quý trọng, thế là hết
mơ ước có những cặp trai gái làng đến ngồi bên thành giếng thỏ thẻ
những lời tình tự yêu đương trong đêm khua!
Cuộc đời của Giếng Côi tưởng chừng như đã
kết thúc buồn thảm và oái oăm như thế! Hỡi hồn ma Hời, hỡi thần
Giếng! Có thiêng thì hãy quở trách những kẻ bội bạc, thử bắt họ
đau phình bụng, trướng gan vì đi ngang qua giếng mà vô tình, vô cảm, vô
ơn! Sao xưa kia quý trọng, gần gụi đến thế mà bây giờ hờ hững,
ngoảnh mặt, bịt mũi bỏ đi? Sao họ không hiểu rằng chính kẻ thù và
họ đang tâm hủy hoại nguồn nước quý hiếm đã bao đời chắt chiu và
cung cấp những giọt nước ngọt lành cho họ hưởng? Giếng Côi đã chua
xót mùi đời vì sự bội bạc, tàn nhẫn của con người!
*
Một buổi sáng mùa xuân, người ta thấy có
chiếc xe hơi màu xanh da trời chạy vào làng. Họ nghĩ có lẽ là mấy
ông làm chức to về thắp hương cho tổ tiên của gia đình họ. Mọi đôi
mắt đổ dồn về chiếc xe đang đến gần. Lúc xe dừng lại, một bà già
trạc tuổi ngoài bảy mươi, ăn mặc giản dị, bước xuống xe, niềm nỡ
chào hỏi mọi người. Bọn trẻ không biết bà là ai, số người trung niên
cũng thấy bà xa lạ. Chỉ những người xấp xỉ tuổi bà ngờ ngợ nhận
ra bà là con dân của làng! Bà đến gặp ông Hội chủ làng, xin vào
thắp hương cho ngài Khai khẩn, qua chùa lễ Phật và rồi trò chuyện,
làm quen với dân làng. Bây giờ người ta mới tò mò hỏi bà về chuyện
riêng tư. Càng đi ngược lại thời gian, bà con mới biết được rằng bà
là người con gái đã chịu tai tiếng do mối tình “chắt nước giếng Côi”, mà phải bỏ làng ra đi cùng người yêu
trong buồn tủi!
Ngồi trò chuyện với bạn làng thuộc trang lứa
cũ, bà kể nỗi gian nan vất vả từ lúc xa làng, quyết chí lập nghiệp
ở xứ người để có cơ ngơi khấm khá; vì danh dự của làng, vì sự
chung thủy của mối tình bên giếng mà vợ chồng bà đã nuôi dạy các
con nên người,… Bà bỏ ra một ngày để đi thăm dân làng, thăm các di
tích đình, chùa, đền , miếu, đặc biệt là cái Giếng Côi. Bà thấy những cảnh tang thương của thời khói
lửa phần lớn đã được sửa sang cho đỡ vẻ hoang tàn. Nhưng khi tìm đến
với Giếng Côi thì, than ôi, bà đã sửng sốt và xót xa đến se thắt lòng!
Trước đây bà không hề tưởng tượng rằng cái giếng ơn nghĩa và mang nhiều
kỷ niệm thời son trẻ lại có thể trở nên tồi tệ như những gì bà đang
tận mắt nhìn thấy! Chốc lát hai giọt nước mắt lăn dài trên đôi má
người phụ nữ đã qua tuổi bảy mươi!
Tối
hôm đó bà già ở lại với làng. Bà tìm đến ông trưởng thôn và trình
bày những tâm nguyện của bà. Bà nêu ý định, với số tiền dành dụm
bấy lâu, bà muốn giúp hết cho làng để tôn tạo đình chùa, đền miếu
mà có thời người ta cho là mê tín, dị đoan nên đã đập phá đi. Bây
giờ dân làng đã có trình độ văn hóa, họ nhận thức đấy là nơi lưu
giữ hồn thiêng của các bậc tổ tiên đã có công lớn với làng, nên mọi người hoan nghêng hảo tâm của bà.
Còn một điều không ai ngờ tới là bà thiết tha đề nghị làng cho phục
chế Giếng Côi. Lúc đầu người ta
bảo bà là e không làm nổi vì có cả hàng tấn đất đá, vôi vữa, rác
rưởi đủ loại đã đổ xuống giếng, không cách nào lấy lên được. Nhưng
với ý nguyện và quyết tâm, bà đã thuyết phục được trưởng làng chấp
thuận, và bà nhận lãnh toàn bộ việc trông coi việc phục chế giếng
Côi. Ba ngày trục vớt hết đất đá lên khỏi lòng giếng, bà cho vét
cạn nước, bỏ thuốc khử trùng và bắt đầu việc sửa chữa, tôn tạo
giếng. Ngày nào bà cũng ra ngồi cạnh giếng, chỉ dẫn, yêu cầu thợ
sắp lại từng viên đá sao cho giống hình dạng ngày xưa, số đá đã bị
vỡ bà cho đi chở đá lành nơi khác về thay thế. Thành giếng được xây mới,
nhưng vẫn giữ chiều cao như trước đây để có thể ghé ngồi lên như bà
và bạn bè đã từng ngồi thuở trước. Mười hai ngày làm xong giếng,
bà đãi thợ một bữa ăn khá thịnh soạn, với một lời cảm ơn chân
thành vì họ đã chịu khó làm theo ý bà để bây giờ bà nhìn thấy
một công trình như ý. Bà rót rượu và rưới it nước hoa xuống giếng
để khử mùi hồ vữa còn mới, bà cũng không quên đốt 3 nén nhang thơm
ra đứng bên thành giếng mà khấn. Người ta tưởng bà dị đoan bày
chuyện khấn vái thần giếng hoặc ma Hời. Không, họ đã nhầm! Bà đang
lâm râm khấn vái để tỏ lòng biết ơn những vị tiền nhân nào đó đã
có công xây dựng giếng quý này để bao đời nay dân làng chắt được
những giọt nước ngọt lành quý hiếm; về riêng tư, bà còn cảm ơn
giếng đã tạo cơ duyên cho bà lấy được người mình yêu và hôm nay lại có
cơ duyên quay về với Giếng.
Mọi chuyện đều có lý do, việc bà
muốn trở lại cố hương một phần là do cơn ác mộng vào tháng trước
của bà. Một hôm bà nằm mơ thấy mình bị một kẻ hình thù như đười
ươi giết chết và kéo xác đem chôn vào một nghĩa địa rộng mênh mông.
Bà nhìn quanh toàn là người lạ: nào da trắng, da đen, da đỏ, nhưng tuyệt
nhiên không có một bóng da vàng! Bà kêu cứu họ thì họ xổ ra những
tràng âm thanh quái dị, bà chẳng hiểu tí nào. Bà gọi cha, gọi mẹ,
gọi bà con, láng giếng thì chẳng thấy ai đến cứu! Hoảng sợ quá, bà
choàng tỉnh dậy mới hay mình vừa trải qua một giấc mộng hãi hùng!
Ngay lúc ấy bà đã nghĩ đến chuyện hồi hương.
Ba năm sau bà lại về thăm làng và thăm giếng
Côi thân yêu của bà. Lần về này, bà đã mang theo một quyết định lớn.
Hơn hai phần đời bà lưu lạc nhiều nơi, khấm khá lên khi ở xứ người tận
bên đất trời Âu, Mỹ. Khi trẻ trung, đó là miền đất hứa, nhưng bây giờ
bà chợt nhận ra tất cả vinh hoa, phú quý đó là vô nghĩa, là của xứ
người. “Cáo chết ba năm quay đầu về
núi”, bà tự nhủ: Ta hãy về đi
thôi, không nơi nào đẹp bằng quê hương, không nơi nào thân thương bằng nơi
chôn nhau cắt rốn, nơi đầy ắp những kỷ niệm êm đềm của tuổi thơ. Ta
phải trở về!
Hôm nay bà làm một mâm cau, hai chai rượu nếp,
kính trọng đến trình làng xin 28 mét vuông đất. Bà nêu rõ: Xin làng
cấp cho 24 mét cạnh Giếng Côi để làm túp lều nhỏ sống tạm tuổi
già, 4 mét vuông còn lại xin làng cấp ở phần đất nghĩa trang của
làng để làm nơi an nghỉ muôn đời của vợ chồng bà. Chồng bà đã qua
đời và đang gởi tạm nắm xương ở xứ người. Bà chỉ xin 4 mét vuông
đất đủ nằm cho hai vợ chồng, còn con cháu bà thì đang dần dần trở
thành kẻ mất gốc, không mong chúng trở lại quê hương. Nhưng bà vẫn
còn hy vọng: nếu thân xác vợ chồng bà yên nghỉ tại quê nhà thì bọn
con cháu còn có cơ hội trở về với nơi cội nguồn tiên tổ. Chẳng lẽ
chúng bất hiếu, bất nghĩa đến nỗi không nhớ đến những người sinh ra
và hy sinh suốt đời vì hạnh phúc của chúng?! Làng hẹp, dân đông, nên
việc cấp đất ngày càng khó. Tuy nhiên, làng vẫn hoan hỷ chấp thuận
nguyện vọng của bà, vì bà là người phụ nữ có lòng với tổ tiên,
có tình với làng xóm; còn hơn nhiều ông chức to, quyền trọng, lầu
năm bảy cái, tiền gởi ngân hàng ngoại quốc mà không hề đoái hoài
đến làng nước, tổ tiên!
Rồi một đêm trăng rằm vằng vặc, người ta thấy
một bà lão tay cầm nắm hương và bó hoa tươi từ túp lều nhỏ tiến ra cái
giếng ở đầu làng. Bà lầm rầm khấn vái rồi cắm hương vào phía tây
của bờ giếng, và từ từ ngắt từng cánh hoa thả vào lòng giếng. Bà
ghé người ngồi xuống thành giếng bên đông và nhìn lên mặt trăng. Trăng
hôm nay đẹp quá, tròn trịa như mối tình thủy chung son sắt của bà!
Bà lại nhìn xuống đáy giếng. Mặt nước tràn ngập ánh trăng, lấp
lánh hình bóng bà. Bà tưởng tượng đó là hình ảnh mình hồi con
gái, đang xỏa mái tóc thề, cùng trò chuyện, tỏ tình với chàng trai
bên kia thành giếng. Bao kỷ niệm đầy mộng mơ ùa về trong ký ức , bà thấy
lòng hân hoan, lâng lâng khó tả. Lâu nay bà ít khi nghĩ đến chuyện
viết văn, làm thơ; nhưng hôm nay những cảm xúc đang dâng ngập lòng bà, bà buột miệng thốt lên khúc
tâm tình mộc mạc của một người gần hết đời lưu lạc xứ người, nay
mừng được về sum vầy bên tiên tổ, được sống những ngày cuối đời
giữa quê hương yêu dấu và Giếng Côi trọn nghĩa, vẹn tình!
Bà sảng khoái cất giọng ngâm nga như
một thi sĩ đang ngâm bài thơ tình tuyệt tác:
Giếng Côi ơi!
Từ nay ta sẽ
ở bên người.
Còn sợ gì
cảnh lẻ loi, đơn độc!
Thế sự có
lúc muốn cười, nhiều khi muốn khóc,
Bởi nhân tình
hay tráo trở, ranh ma.
Gần sáu mươi năm trời xuôi ngược bôn ba,
Ta mệt mỏi
vì miếng cơm, manh áo!
Nhưng ta
quyết không sai lòng, lỗi đạo;
Nguyền trọn
niềm chung thủy với quê hương.
Nay ta về
tìm lại yêu thương
Của tổ tiên
bao đời tiếp nối,
Cho tuổi thơ
ta tung tăng nơi đồng nội,
Cho tâm hồn
ta bay bổng tuyệt vời!
Cho nghĩa
tình trang trải tới muôn nơi,
Cho người
với ta được làm đôi tri kỷ!
Giếng Côi ơi!
Tình hai ta chân
thành mà giản dị,
Lai láng
giữa quê hương
Vằng vặc
ánh trăng rằm!
Quê nhà, một đêm trăng sáng
Văn Quang
0984 509122
vanquangqtri@yahoo.com.vn
***